Chiến trường Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), theo phân chia chiến trường của địch, Tây Nguyên và các tỉnh ven biển từ Bình Định đến Bình Thuận thuộc Quân khu 2 - Quân đoàn 2 ngụy. Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 ngụy đóng ở Pleiku (Gia Lai). Tây Nguyên là địa bàn diễn ra nhiều trận đánh, chiến dịch mang tầm chiến lược, tác động mạnh mẽ đến cục diện chiến trường miền Nam và sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
Tây Nguyên - hai lực lượng, ba thứ quân phối hợp tiến công tiêu diệt lớn quân địch, tạo bước ngoặt trên chiến trường
Sau Hiệp định Geneva năm 1954, trong bối cảnh địch thực hiện “tố cộng”, “diệt cộng”, Liên khu ủy 5 đã sớm lãnh đạo xây dựng các căn cứ địa ở vùng rừng núi Tây Nguyên để làm chỗ dựa cho phong trào cách mạng. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, nhất là ở Gia Lai, đã vùng dậy đấu tranh chống địch cướp đất lập dinh điền. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 15 (năm 1959), Phong trào Đồng khởi bùng lên mạnh mẽ. Đến cuối năm 1960, lực lượng cách mạng đã tiêu diệt 55 cứ điểm, 40 trung đội địch, phá bộ máy chính quyền địch ở 3.200 thôn trong tổng số 5.721 thôn ở Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng. Tây Nguyên là nơi diễn ra trận đánh Đắk Hà, Kon Tum (từ ngày 30-8 đến 2-9-1961)-chiến thắng đầu tiên của chủ lực Quân khu 5 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đánh giá đúng vị trí chiến lược của địa bàn Tây Nguyên, để thuận lợi cho việc tổ chức chỉ huy cũng như bảo đảm chi viện tiếp tế, ngày 1-5-1964, Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Tây Nguyên (mật danh B3), gồm các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai và Đắk Lắk. Sau khi thành lập, LLVT B3 tiến công địch tại Trung tâm huấn luyện biệt kích Plei Mơ Rông, Kon Tum (ngày 4-7-1964), diệt 4 đại đội biệt kích; ngày 7-2-1965, phối hợp tác chiến với chiến trường đồng bằng ven biển trong trận Dương Liễu-Đèo Nhông (Bình Định), LLVT B3 tập kích sân bay Aria và trại lính Holloway (Gia Lai), tiêu diệt lớn quân địch, phá hỏng nhiều máy bay.

Nhân dân Pleiku (Gia Lai) mít tinh mừng quê hương giải phóng, năm 1975. Ảnh tư liệu
Mùa hè 1965, trước sự phát triển lớn mạnh của lực lượng cách mạng, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” có nguy cơ phá sản, Mỹ đổ quân vào chiến trường miền Nam Việt Nam. Tháng 9-1965, Sư đoàn kỵ binh 1 Mỹ vào An Khê (Gia Lai). Cuối năm 1965, sau khi xây dựng xong các căn cứ quân sự dọc ven biển miền Trung và trên địa bàn Tây Nguyên, địch bắt đầu các cuộc hành quân “tìm diệt” chủ lực ta và tiến hành “bình định nông thôn”. Phong trào cách mạng đứng trước những khó khăn, thử thách mới. Trên địa bàn Tây Nguyên, mặc dù chịu nhiều hy sinh mất mát, song với ý chí và nghị lực phi thường, quần chúng nhân dân vẫn kiên cường bám đất giữ làng, “một tấc không đi, một ly không rời”; các đơn vị LLVT thực hiện “3 bám” (bám dân, bám địa bàn, bám địch). Hai lực lượng, ba thứ quân đánh địch bằng quân sự, chính trị, binh vận.
Nhằm khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, đánh thắng trận đầu, tiêu diệt lớn quân địch, Đảng ủy, Bộ tư lệnh B3 mở Chiến dịch Plei Me ở Gia Lai (từ ngày 19-10 đến 26-11-1965). Trong chiến dịch này, ta tiến hành đánh điểm diệt viện; chủ động chuẩn bị sẵn trận địa, dồn Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 3, Sư đoàn kỵ binh 1 Mỹ về thung lũng Ia Đrăng để tiêu diệt. Đây là chiến dịch đánh Mỹ lần đầu tiên trên chiến trường Tây Nguyên; một tiểu đoàn quân Mỹ đã bị tiêu diệt gọn. Chiến thắng Plei Me cho thấy: Mặc dù Mỹ ồ ạt đưa quân chiến đấu vào miền Nam, ta vẫn giữ được quyền chủ động về chiến dịch, chiến thuật và có thể tiêu diệt gọn từng đơn vị quân chiến đấu Mỹ.
Mỹ tiếp tục đổ bộ Sư đoàn 4 bộ binh vào Tây Nguyên để tiến hành các cuộc hành quân “tìm diệt” chủ lực ta. Đảng ủy, Bộ tư lệnh B3 mở Chiến dịch Sa Thầy (từ ngày 18-10 đến 6-12-1966) đánh phủ đầu Sư đoàn bộ binh 4 Mỹ. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.400 tên địch, bắn rơi 21 máy bay, phá hủy 26 khẩu pháo, 28 xe quân sự, thu 68 súng các loại. Chiến dịch Sa Thầy cho thấy nghệ thuật khêu ngòi, nghi binh dụ địch từng bước vào thế trận chuẩn bị sẵn để tiêu diệt, làm thất bại kế hoạch phản công của địch.
Đặc biệt, trong xuân hè 1972, chủ lực của Bộ Tổng Tư lệnh, Mặt trận B3 và Quân khu 5 cùng LLVT địa phương đánh lớn ở Bắc Tây Nguyên. Ta tiêu diệt một tiểu đoàn dù địch tại điểm cao 1015 (đồi Charlie), chọc thủng tuyến phòng ngự Tây sông Pô Cô, đưa Sư đoàn 2, Quân khu 5 đột phá vào căn cứ Đắk Tô-Tân Cảnh từ hướng Đông. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Khu 5, trong một thời gian ngắn, ta đã tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 22 (thiếu) của địch trong công sự vững chắc, bố trí đội hình phòng ngự hoàn chỉnh. Mặc dù ta không giành thắng lợi trọn vẹn khi phát triển tiến công vào thị xã Kon Tum, song Chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972 đã có tác động mạnh đến tình hình chiến trường, dẫn đến sai lầm của địch khi nhận định về cuộc tiến công của ta trong năm 1975.
Tây Nguyên - nơi mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Đầu năm 1975, sau hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thời cơ chiến lược đã đến với cách mạng Việt Nam. Đối với Mỹ, sau khi buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam và tiếp theo là hàng loạt sự kiện đấu đá, xâu xé nhau trong giới cầm quyền Mỹ trong hai năm 1973 và 1974, nhất là “vụ Watergate” khiến Tổng thống Mỹ Richard Nixon phải từ chức, tình hình đối nội và đối ngoại của nước Mỹ gặp nhiều khủng hoảng. Mỹ khó có khả năng đưa quân quay trở lại Việt Nam; khả năng đó càng rõ hơn sau Chiến thắng Phước Long 1974.
Tháng 12-1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp với tư lệnh các quân khu, quân đoàn ngụy để phán đoán hoạt động của ta trong năm 1975 và nhận định: Năm 1975, Việt Cộng không thể đánh lớn khắp miền Nam như Mậu Thân 1968, càng không thể như năm 1972. Chỉ có thể hoạt động ở một số vùng trọng điểm ở Tây Nguyên hoặc miền Đông Nam Bộ. Không thể có khả năng tiến công các thành phố lớn, chỉ có thể tiến công các thành phố, thị trấn như Gia Nghĩa... Mục tiêu chính của Việt Cộng là đánh chiếm một số căn cứ nhỏ xung quanh Tây Ninh để xây dựng trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính là giành lại 2 triệu dân ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Xuất phát từ nhận định sai lầm về ta nên hình thái chung trong bố trí chiến lược của địch vẫn là “mạnh hai đầu”. Lực lượng địch còn rất lớn nhưng phải dàn ra trên một địa bàn quá rộng nên bị phân tán, bộc lộ nhiều sơ hở, đặc biệt là ở Nam Tây Nguyên và dọc ven biển miền Trung. Thế và lực đang trên đà suy yếu cộng với việc phán đoán sai lầm về hoạt động của ta dẫn đến sai lầm trong bố trí chiến trường là tình hình cơ bản nhất về địch ở miền Nam lúc đó.
Tháng 1-1975, Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Nam Tây Nguyên, thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên toàn chiến trường miền Nam. Trọng điểm là tỉnh Đắk Lắk; mục tiêu then chốt quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột; mục tiêu quan trọng là quận lỵ Đức Lập, Thuần Mẫn, Kiến Đức. Hướng phát triển là Cheo Reo, Gia Nghĩa (trong đó, Cheo Reo là hướng phát triển chủ yếu).
Theo kế hoạch, ngày 4-3-1975, bộ đội ta nổ súng mở Chiến dịch Tây Nguyên. Từ ngày 4 đến 9-3, ta đánh cắt giao thông trên các Đường 19 và 21, cô lập Tây Nguyên với vùng duyên hải miền Trung; chia cắt Đường 14 để cô lập hai khu vực Bắc Tây Nguyên với Nam Tây Nguyên; tiến công lần lượt đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn, Đức Lập, cô lập triệt để Buôn Ma Thuột. Ngày 10 và 11-3-1975, ta tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, đánh thắng trận then chốt mở đầu của chiến dịch. Tiếp đó, từ ngày 14 đến 18-3, ta đập tan cuộc phản kích của Sư đoàn 23 ngụy trong trận Nông Trại-Chư Cúc-Phước An. Bị thất bại và trước sức uy hiếp mạnh mẽ của ta, từ ngày 15-3, quân địch rút khỏi Kon Tum, Pleiku theo Đường 7 hòng co cụm về vùng đồng bằng ven biển. Không bỏ lỡ thời cơ, dưới sự chỉ đạo của Tổng Quân ủy, Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên kịp thời tổ chức truy kích, tiêu diệt gần hết quân địch rút chạy trên Đường 7 tại Cheo Reo, Củng Sơn. Sau đó, ta phát triển tiến công xuống vùng duyên hải Nam Trung Bộ, phối hợp với quân và dân địa phương lần lượt giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, kết thúc chiến dịch vào ngày 3-4-1975. Kết quả chiến dịch: Ta tiêu diệt và làm tan rã Quân khu 2-Quân đoàn 2 ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 28.000 tên, thu và phá hủy 154 máy bay, gần 1.100 xe quân sự, giải phóng các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh ở duyên hải Nam Trung Bộ.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên là kết quả của sự vận dụng sáng tạo đường lối quân sự của Đảng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là thắng lợi của sự thống nhất giữa ý Đảng, lòng dân, đoàn kết hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương, dân quân du kích. Thắng lợi to lớn của Chiến dịch Tây Nguyên đã tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh tương quan lực lượng địch-ta trên toàn chiến trường miền Nam, tạo thế để ta phát triển thành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam năm 1975.
Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), những tên đất, tên làng, tên dòng sông, địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc gắn liền với những chiến công oanh liệt, thể hiện khí phách của quân và dân Tây Nguyên, xứng đáng với vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng của vùng đất này. Thực tiễn chiến trường Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý để vận dụng trong tình hình mới, nhất là phát huy sức mạnh ý chí, nghị lực, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng Tây Nguyên phát triển nhanh, bền vững, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm quốc phòng, an ninh theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6-10-2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.