Chiều trên bến Âu Lâu

Yên Bái, cửa ngõ miền Tây Bắc, đẹp và nghĩa khí, lắng đọng những hồn thiêng núi sông. Nơi ấy một thời từng có 'lớp lớp đoàn quân kéo về' vượt sông tiến về Điện Biên 'Giũ bùn đứng dậy sáng lòa'… Buổi nay đứng trên bến phà năm xưa trong hiu hiu gió thổi, lòng không khỏi mê mải ngắm nhìn những bóng chiều nhạt phai đang hòa vào con nước nặng đỏ phù sa…

Tượng đài di tích lịch sử Bến Âu Lâu

Tượng đài di tích lịch sử Bến Âu Lâu

Cuối thu, trời bầu trời thành phố Yên Bái như thể cao và xanh hơn. Mây đen không còn vần vũ nữa chỉ có mây trắng quện cùng gió xanh, hòa trong màu nắng vàng tươi như rót mật khiến cho phố núi càng trở nên quyến rũ … Giá như không bị bão lũ dâng nước nhấn chìm hết mọi nẻo đường thì phố núi xinh xinh hiện ra trong mắt người qua hẳn sẽ đẹp biết nhường nào… Cứ thế, trong nắng chiều nhạt buông, thành phố cửa ngõ miền Tây Bắc hiện ra trước mắt chúng tôi như vậy đấy. Chợt nhớ, hầu như phố núi Yên Bái năm nào cũng lụt, cũng ngập. Nhưng rồi cứ ngập xong, khi nước rút phố nhỏ thân thương lại trở về nguyên vẹn hương sắc duyên dáng của nàng sơn nữ để làm người ta không khỏi nao lòng thích thú.

Thế đấy, sau những ngày ngập lụt nặng nề, do bị ảnh hưởng của cơn bão Bualoi, chúng tôi trở về thăm lại thành phố Yên Bái, bây giờ là thủ phủ của tỉnh Lào Cai. Lang thang, dạo quanh trên khắp các ngả đường từ khu phố trung tâm ra đến bờ sông ở bến Âu Lâu, chúng tôi thấy phố núi lại như bị ngập trong màu nắng vàng lóng lánh của trời thu để tinh tươm trở lại. Nhưng trong cái tinh tươm ấy vẫn phảng phất trong đâu đó hương vị phù sa của sông Hồng thoảng lên cái mùi nồng nồng, ngai ngái; những ngấn nước cao chừng quá đầu người vẫn còn in hình lờ mờ trên các bức tường màu vàng loang loang lổ lổ ở trong khu chợ trung tâm. Chỉ bấy nhiêu thôi nhưng cũng đủ nói lên tất cả… thành phố vừa phải đi qua bao nhiêu nỗi hãi hùng, kinh hoàng. Dường như cơn nước lũ hôm nào vẫn còn đâu đó quanh đây, dấu tích chưa được xóa hết và còn đang rất ám ảnh.

Đi qua những phố nhỏ, chúng tôi ra bờ sông Hồng để tìm về chốn xưa với những bi hùng, quả cảm của một thời đã qua. Đứng trên bến phà huyền thoại năm xưa, ngắm nhìn dòng sông đỏ nặng phù sa đang chầm chậm về xuôi một cách hiền lành chứ không cuộn sóng, dâng nước táo tợn, hung dữ như ngày hôm nào, bất chợt trong tôi thấy một phố núi Tây Bắc hiện lên thật thanh bình và yên ả. Từ bờ hữu ngạn nhìn sang bên kia sông, phía bờ tả ngạn, một bên bãi bờ của bến Âu Lâu vẫn đó, sừng sững trong một tầm mắt với những vườn cây xanh biếc lá và thấp thoáng thuyền bè đủng đỉnh xuôi ngược giữa dòng. Tôi ngắm nhìn dòng sông và rồi lại chợt nghĩ, nếu không có những bia đá khắc ghi cùng với khối tượng đài, phù điêu của cụm công trình di tích lịch sử trên bờ sông, giữa ngã ba đường… thì hẳn sẽ có nhiều người không biết rằng một thời kỳ đạn bom ác liệt của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã từng hiện diện ở chốn này. Và, có lẽ, cũng chẳng ai còn nhớ đến cái khúc sông huyết mạch ở Âu Lâu, từng là cửa ngõ quan trọng để đi vào miền Tây Bắc; từng là điểm kết nối giữa trung du đồng bằng Bắc Bộ, chiến khu Việt Bắc với vùng miền núi Tây Bắc, cả đường đi trên bộ và đường đi dưới nước. Cũng có khi, người đời cũng chẳng ai còn nhớ, có một thời, cái bến sông đục ngầu trước mặt tôi kia lại từng là nơi trung chuyển biết bao chuyến hàng, biết bao chiến sĩ cho kịp giờ ra chiến trường trên khắp miền Tây Bắc để góp phần làm lên chiến thắng lẫy lừng trong trận Điện Biên chấn động địa cầu.

Lặng nhìn dòng sông, trong trí tưởng tượng của tôi, một thời máu lửa trên bến Âu Lâu, khúc sông lại hiện về với những trận mưa bom bão đạn. Bây giờ, bên dòng sông Hồng, quanh khu vực thủ phủ tỉnh Lào Cai đã có năm cây cầu. Nhưng nhìn lại quãng thời gian từ cuối năm 1992 về trước, nối hai bờ sông chỉ có những chiếc đò nan và các chuyến phà. Và, chỉ đến khi cây cầu Yên Bái được khánh thành và đưa vào sử dụng thì việc qua lại trên những tuyến đường giữa đôi bờ tả ngạn và hữu ngạn, hay đi khắp các tỉnh miền Tây Bắc mới trở nên thuận tiện và dễ dàng. Đến đây, ngắm nhìn bờ xưa bến cũ, ký ức về những phà Âu Lâu trong trí nhớ của nhiều người hẳn sẽ chưa quên. Hình ảnh những chuyến phà được ca nô lai dắt trở đi trở về tấp nập đôi bờ lại gợi lên bao điều thương nhớ. Bến phà phía Âu Lâu là những bãi cát lầy, Bến phà phía đầu thành phố Yên Bái bờ dốc cao cao. Những hình ảnh ấy chẳng thể nào phôi phai, dẫu cho bãi bờ nay chẳng còn được nguyên vẹn như xưa. Trong ký ức, mỗi lần phà cập bến, hình ảnh một anh công nhân nhà phà cầm chiếc cờ đuôi nheo màu đỏ lội xong hay chạy đi chạy lại để xi nhan, ra lệnh cho xe lên xe xuống… lại hiện về. Thế rồi, đến đầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, nhu cầu phát triển của tỉnh Yên Bái nói riêng và cả đất nước nói chung mà cầu Yên Bái bây giờ được khởi công, hoàn thành rồi đưa vào sử dụng. Theo đó Yên Bái lại có thêm một biểu tượng mới. Cây cầu nối đôi bờ sông Hồng ấy đã thay thế cho bến phà Âu Lâu và trở thành một sự kiện trọng đại; trở thành niềm tự hào của người dân Yên Bái ngày đó. Chẳng thế mỗi khi có khách đến chơi, cây cầu lại là một địa điểm được người dân Yên Bái dẫn đến để chiêm ngưỡng vàc hụp ảnh.

Di tích lịch sử Cổng Đục - Đồn Cao

Di tích lịch sử Cổng Đục - Đồn Cao

Xa hơn nữa, thời chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, sông Hồng với bến Âu Lâu, chỉ bằng những chiếc thuyền nan (thời chống Pháp), những chiếc phà bằng gỗ, sau thay bằng thép (thời chống Mỹ), người dân Yên Bái, đặc biệt là người dân xã Âu Lâu, ngày đi sơ tán đêm lại về chuyên chở bộ đội, hàng hóa, vũ khí đưa ra chiến trường. Cứ vậy mà hàng trăm ngàn tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm và hàng vạn lượt bộ đội được qua sông để đi đến những chiến trường Tây Bắc; chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam. Cũng vì thế mà bến sông này cũng đã trở thành một trọng điểm đánh phá ác liệt của cả đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ trong những năm tháng chiến tranh; thời chống Pháp, chỉ tính riêng từ tháng 11 năm 1953 đến tháng 5 năm 1954, giặc Pháp đã đánh phá bến Âu Lâu tới hai trăm ngày đêm với hơn hai ngàn bẩy trăm tấn bom đạn ném xuống. Sau này, hòa bình lập lại, để ghi nhớ công lao của các thế hệ quân và dân Yên Bái mà trên bờ của bến phà năm xưa, tỉnh Yên Bái đã cho dựng tượng đài “Bến Âu Lâu”, khắc phù điêu đá để ghi lại, nhắc nhở về những chiến công anh hùng và tôn vinh công trạng của những con người quả cảm ngày ấy. Bến Âu Lâu bây giờ cũng đã được nhà nước ghi nhận và xếp hạng di tích Quốc gia; là điểm lui đến của biết bao người trong cả nước mỗi khi về Yên Bái.

Theo đó, bờ sông và con đường Nguyễn Phúc giờ đây cũng đã trở thành một địa danh lưu dấu những chiến công hào hùng, oanh liệt. Ngắm nhìn những bức tranh được miêu tả trên tấm phù điêu đá với các cảnh chèo thuyền trở người vượt sông, đưa xe ra tuyền tuyến, phá núi mở đường tiến quân về giải phóng Điện Biên … cùng hình tượng người thợ phà tay giữ mỏ neo, cô gái cầm mái chèo, anh chiến sĩ bừng bừng khí thế tiến công trên khối tượng đài giữa ngã ba đường người ta như thấy hiện lên khí phách, tinh thần “sống bám phà, bám đường, chết kiên cường, dũng cảm” của cả một thời kỳ “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Những hình ảnh ấy không chỉ có ý nghĩa tôn vinh công lao của quân dân Yên Bái trên bến phà Âu Lâu mà còn là một biểu tượng, thể hiện tinh thần sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để giành lại độc lập, tự do cho tổ quốc. Đến đây, ngắm nhìn dòng sông và cụm công trình tôi đã thấy như thế đấy!

Từ bến phà huyền thoại, chúng tôi đi lên nhà máy nước, về phía cầu Yên Bái, khoảng chừng vài trăm mét, đến thăm di tích Cổng Đục - Đồi Cao để ngược dòng lịch sử, trở về với một phong trào yêu nước nổi tiếng của cả nước ở vào thập niên ba mươi của thế kỷ trước: Cuộc khởi nghĩa Yên Bái (do Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức). Như thế, bến sông Âu Lâu còn là một chứng nhân lịch sử cho những năm tháng đau thương nhưng vô cùng hào hùng của dân tộc. Khu di tích Cổng Đục - Đồi Cao ngày xưa chính là đồn binh của quân Pháp. Những người dân sinh sống ở Âu Lâu có kể lại rằng, người Pháp cho xây dựng ở đây hai đồn binh gọi là Đồn Dưới và Đồn Cao để cho lính khố đỏ, khố xanh và sĩ quan Pháp đồn trú. Những đồn binh này nằm bên sông, trên quả đồi được xem là cao nhất ở khu vực thành phố Yên Bái, án ngữ một vị trí chiến lược quân sự vô cùng đắc địa. Đứng trên đỉnh đồi (Đồn Cao), quân Pháp có thể nhìn thấy toàn bộ trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái và quan sát được cả một đoạn sông Hồng chảy qua phía Tây thành phố, khoảng 2 km, đoạn từ bến Âu Lâu đến Bách Lẫm. Không những thế, nó còn có thể kiểm soát được toàn bộ tuyến đường bộ ở cả hai bên tả ngạn và hữu ngạn của dòng sông, đặc biệt là tuyến đường sắt từ Hà Nội đi Lào Cai. Bởi thế khu di tích Cống Đục - Đồn Cao này là tâm điểm của cuộc khởi nghĩa ngày đó. Nó chính là nơi bùng nổ cuộc khởi nghĩa Yên Bái vào lúc 1 giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1930. Lịch sử còn ghi, theo kế hoạch, nghĩa quân chia làm ba đội: đội thứ nhất phối hợp với binh lính khố đỏ đã được giác ngộ hòng đánh chiếm trại lớn của Đồn Dưới và chiếm kho vũ khí để phát cho nghĩa quân; đội thứ hai tiến đánh Đồn Cao, nhiệm vụ là giết bọn sĩ quan chỉ huy và cướp trại; đội thứ ba đánh thẳng vào nhà của các sĩ quan Pháp ở giữa hai trại lính. Tuy nhiên kế hoạch diễn ra không như mong muốn. Cuộc khởi nghĩa chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn. Đến 9 giờ 30 phút sáng ngày 10 tháng 2 năm 1930, cuộc khởi nghĩa hoàn toàn bị dập tắt. Nguyên nhân của thất bại này là do tương quan lực lượng không phù hợp. Quân Pháp còn quá mạnh. Quân khởi nghĩa chưa có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt. Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa cũng giáng cho Pháp một đòn chí mạng: giết chết 7 sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, làm thương nặng 4 tên. Có thể nói cuộc khởi nghĩa này tuy “không thành công” nhưng “cũng thành nhân” như tuyên ngôn của những người Quốc dân Đảng. Nó đã gây được tiếng vang lớn ở trong và ngoài nước; thể hiện được tinh thần bất khuất, yêu nước, quật cường của dân tộc. Bởi thế, khi nhắc đến cuộc khởi nghĩa này Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết “Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An/ Hai lần khởi nghĩa, tiếng vang toàn cầu” (Lịch sử nước ta). Đặc biệt, tháng 6 năm 1930, Louis Aragon (nhà thơ Pháp) đã viết bài thơ “Yên Bái” và đăng trên tờ Front Rouge, trong đó có đoạn: “Yên Bái, đây là cái từ nhắc nhở ta rằng, không thể bịt miệng một dân tộc mà người ta không thể khuất phục bằng lưỡi kiếm của đao phủ!”.

Nơi yên nghỉ của nhà yêu nước Nguyễn Thái Học và 16 liệt sĩ bị hành hình trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái

Nơi yên nghỉ của nhà yêu nước Nguyễn Thái Học và 16 liệt sĩ bị hành hình trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái

Đến thăm khu di tích Cổng Đục - Đôi Cao, chúng tôi thấy khu vực Đồn Dưới nhà dân mọc lên san sát. Dấu tích đồn binh chẳng còn thấy gì. Khu vực iĐồn Cao chỉ còn lại Cổng Đục. Đồn bốt năm xưa trên đỉnh đồi cũng bị san phẳng. Tuy nhiên ngắm nhìn đoạn cổng rêu phong còn lại chúng tôi cũng đủ nhận ra sự công phu của một công trình quân sự. Nghe nói, Cổng Đục chính là một trong hai cửa dẫn vào căn hầm ở dưới lòng đồi, nơi ở của tên chỉ huy cao nhất, Trung tá Aimé Le Tacon. Cổng Đục có lẽ là dấu tích hiếm hoi còn lại của căn cứ quân sự này. Đây là chiếc cổng được thiết kế theo kiểu uốn vòm; xây bằng gạch đỏ; rộng khoảng 4 mét và cao khoảng hơn 3 mét; dài khoảng 20 mét, xuyên chéo xuống lòng đất (đi xuống hầm), đặc biệt vòm cổng rất dày, khoảng chừng 0.5 mét đến 0.6 mét . Tuy nhiên phần cổng cũng chỉ nguyên vẹn khoảng chục mét ở phần đầu còn phần đuôi nghe nói bị bom Mỹ và thời gian hủy hoại nên cũng đã bị vỡ, nứt, xuống cấp. Theo thời gian ghi trên bề mặt của vòm trước (1893) thì Cổng Đục cũng có tuổi đời 132 năm. Người ta kể, công trình này do một viên đội lính khố đỏ tên là Lục quê ở Nam Định tổ chức thi công nên gọi tên là Cổng Đục (chắc do người Pháp phát âm Lục chuyển thành Đục).

Trải qua những thăng trầm lịch sử, giờ đây, chứng nhân Cổng Đục đã trở nên già nua, cổ kính, in đậm dấu thời gian. Nó như đang trầm ngâm, lặng lẽ ẩn mình giữa xóm nhỏ, trong lớp cây cỏ hoang dại xanh mướt, um tùm. Ngắm nhìn những nét rêu phong của Cổng Đục hiện rõ trên sắc gạch, mạch vữa và ta như được chiêm ngưỡng nét đẹp hòa niệm của thời gian. Thế đấy, công trình quân sự Cổng Đục - Đồn Cao, dấu tích duy nhất của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, ngày nào còn kiên cố, bề thế như thế nhưng nay cũng dường như chỉ còn sót lại một chiếc cổng nhuốm màu hoang phế. Những công trình Đồn Dưới, Đồn Cao, hầm hào, công sự, nhà xe, nhà pháo … cái còn cái mất theo trăm năm dâu bể… Một địa chỉ đỏ, một chứng nhân của lịch sử, mảnh ký ức bi tráng nhưng rất hào hùng của lịch sử dân tộc nay cũng chỉ còn vậy thôi ư? Đi sâu vào trong Cổng Đục, nơi “cuối đường hầm” là nhà dân cùng với cảnh vòm cổng đổ nát, cây cỏ um tùm. Nét hoang phế, xuống cấp của công trình hiện lên rõ nét. Chúng tôi đi tìm một tấm bia tri ân và tìm chỗ thắp một nén hương tưởng niệm những nghĩa sĩ đã hi sinh tại di tích này nhưng không thấy có. Thương thay! Mong sao mai này di tích sẽ không phải trở thành phế tích!

Bên tượng đài nhà yêu nước Nguyễn Thái Học và các nghĩa sĩ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái

Bên tượng đài nhà yêu nước Nguyễn Thái Học và các nghĩa sĩ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái

Hoài niệm mãi bên cổng đồn rêu phong ở khu di tích Cổng Đục – Đồn Cao rồi chúng tôi trở ra công viên Yên Hòa viếng mộ các nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái tại khu di tích mộ Nguyễn Thái Học và các nghĩa sĩ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Khu di tích này nằm trên con đường mang tên người thủ lĩnh của của cuộc khởi nghĩa: Nguyễn Thái Học. Đây là một công trình rất đẹp, bề thế, nằm giữa cảnh quan cây cối xanh tươi và hồ nước trong mát của khu công viên Yên Hòa cùng con phố đi bộ kề bên. Nghe nói, những công trình kiến trúc của khu di tích được làm trên chính nơi yên nghỉ của mười bảy liệt sĩ, trong đó có cả những lãnh tụ của phong trào cách mạng Việt Nam Quốc dân Đảng, của cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Điểm nổi bật của khu di tích là khu mộ mười bảy liệt sĩ và tượng đài các nghĩa sĩ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Khu một liệt sĩ được đặt trên thế đất hình vuông, rộng khoảng bẩy mươi mét vuông, bên trên là khối kiến trúc bê tông hình tròn không hoàn thiện, được đỡ bằng mười bảy cột trụ với ý nghĩa là mười bảy nghĩa sĩ để gợi lên ý niệm trời tròn đất vuông và cuộc khởi nghĩa của các anh hùng còn dang dở. Ngoài ra, phần vòng tròn bị vỡ rơi xuống đất được trang trí với ngụ ý rằng: lòng yêu nước đi vào lòng đất và tiếp tục được đất mẹ nuôi dưỡng. Bên trên vòng tròn khuyết có trang trí bằng câu nói bất hủ của nhà yêu ngước Nguyễn Thái Học: “Không thành công cũng thành nhân”. Khu lăng mộ này có mười bảy người được chia làm hai ngôi mộ tập thể. Một ngôi có bốn người và một ngôi có mười ba người, ứng với những người bị xử tử trong đợt hành hình (ngày 8 tháng 5 năm 1930 có bốn người là Ngô Hải Hoằng, Đặng Văn Tiệp, Đặng Văn Lương, Nguyễn Thanh Thuyết; ngày 17 tháng 6 năm 1930 có mười ba người là Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Bùi Tư Toàn, Bùi Văn Chuẩn, Đào Văn Nhít, Nguyễn Như Liên, Nguyễn Văn An, Nguyễn Văn Tiềm, Đỗ Văn Tứ, Bùi Văn Cửu, Ngô Văn Du, Nguyễn Đức Thịnh, Hà Văn Lạo). Cùng với khu lăng mộ, tượng đài các nghĩa sĩ cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng là một điểm nhấn được dựng lên ngay gần đó. Tượng đài cao, to trên một diện tích rất rộng, nhìn ra hồ Cô Giang. Tượng đài gồm có năm người với chiều cao khoảng sáu mét và được đặt trên bệ cao, khoảng ba mét. Năm người đó là: người đứng chính giữa là Nguyễn Thái Học, lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng; người đứng đứng cạnh nắm tay Nguyễn Thái Học là Nguyễn Khắc Nhu (còn gọi là cụ xứ Nhu, ông bị thương nặng trong trận đánh Hưng Hóa và Lâm Thao, sau đó ông tự sát ở nhà lao Hưng Hóa để thể hiện ý chí quyết tử vì dân tộc); người đứng sau Nguyễn Thái Học ở bên phải là Phó Đức Chính; người kế tiếp là Ngô Hải Hoằng (cai Hoằng), đứng thứ ba bên trái sau cụ xứ Nhu, ông là người trực tiếp tham gia và chỉ huy trong trận đánh ở Yên Bái; cuối cùng là bà Nguyễn Thị Giang, người đồng chí đắc lực vừa là người vợ chung thủy của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học; nghe kể, sau khi chứng cái chết oanh liệt của chồng, bà đã rời Yên Bái về quê chồng ở Thổ Tang và tự sát bằng khẩu súng của chồng để lại. Năm người đại diện cho hàng trăm, hàng nghìn nghĩa sĩ của phong trào yêu nước đã anh dũng hy sinh; tượng trưng cho tinh thần quả cảm, bất khuất trước kẻ thù của dân tộc Việt Nam. Nghe kể, trước khi hành hình các nghĩa sĩ của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, tên đao phủ đã quỳ xuống lễ sống nhà yêu nước Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính rồi nói: “Xin hai ông xá tội cho tôi vì đây là việc tôi buộc phải làm”. Hắn nói xong, Nguyễn Thái Học đã khuyên: “Ông làm nghề này thất đức lắm, về sau ông giải nghệ đi nhé”. Còn nhà yêu nước Phó Đức Chính trước khi bị hành hình đã yêu cầu kẻ thù cho được nằm ngửa cổ về phía lưỡi dao khủng khiếp của máy chém để được nhìn lên trời xanh và “nhìn thẳng vào lưỡi dao tội ác của giặc Pháp”. Thế đấy, những nghĩa sĩ lẫm liệt, sống ân tình và chết cũng nghĩa khí ngút trời!

Yên Bái, cửa ngõ miền Tây Bắc, đẹp và nghĩa khí, lắng đọng những hồn thiêng núi sông. Nơi ấy một thời từng có “lớp lớp đoàn quân kéo về” vượt sông tiến về Điện Biên “Giũ bùn đứng dậy sáng lòa”… Buổi nay đứng trên bến phà năm xưa trong hiu hiu gió thổi, lòng không khỏi mê mải ngắm nhìn những bóng chiều nhạt phai đang hòa vào con nước nặng đỏ phù sa, bất chợt tôi nhớ đến người thơ Lê Đạt với câu thơ: “Chiều Âu Lâu/ bóng chữ động chân cầu” (Bóng chữ) và lòng lại rộn lên câu hát: “Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta/ Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo/ Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo/ Nhịp cầu nối những bờ vui” (bài hát “Nhịp cầu nối những bờ vui”, được nhạc sĩ Văn An phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của nhà thơ Phan Văn Từ). Hóa ra bến Âu Lâu bấy lâu đâu chỉ là bến sông của lịch sử? Nó còn là một “bến thơ” dạt dào cảm xúc! Thế đấy, kỷ niệm Yên Bái khó có thể nào quên.

Phan Anh

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/chieu-tren-ben-au-lau-a30700.html