Chính phủ đề xuất thay đổi mức hộ, cá nhân kinh doanh không phải chịu thuế giá trị gia tăng
Tiếp tục chương trình của Phiên họp thứ 32, chiều 23/4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo Thẩm tra về Dự án Luật thuế GTGT (sửa đổi).
Sửa luật để bao quát toàn bộ các nguồn thu
Trình bày Tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài Chính Hồ Đức Phớc cho biết, qua 15 năm thực hiện, Luật thuế GTGT đã đạt được các kết quả quan trọng như: thay đổi theo đúng định hướng cải cách chính sách thuế của Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020; giảm bớt thủ tục hành chính cho người nộp thuế và cơ quan thuế, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; góp phần tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển...
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, qua triển khai thực hiện chính sách thuế GTGT cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: số lượng nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế còn nhiều (26 nhóm) và không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng; việc áp dụng các mức thuế suất (hiện nay gồm 3 mức: 0%, 5% và 10%) đối với các nhóm mặt hàng còn chưa phù hợp; Đối tượng áp dụng mức thuế suất 5% còn nhiều (14 nhóm hàng hóa, dịch vụ) chưa phù hợp với định hướng cải cách hệ thống thuế, tiến tới áp dụng 1 mức thuế suất phổ thông...
Mục đích, quan điểm xây dựng Luật thuế GTGT (sửa đổi) nhằm hoàn thiện quy định về chính sách thuế GTGT để bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu; bảo đảm tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện Luật để góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả của hoạt động quản lý thuế trong phòng, chống trốn thuế, thất thu và nợ thuế; đảm bảo thu đúng thu đủ vào NSNN, đảm bảo ổn định nguồn thu NSNN; khắc phục các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Luật thuế GTGT thời gian qua; tháo gỡ bất cập, chồng chéo trong hệ thống pháp luật thuế GTGT và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các pháp luật liên quan...
Dự thảo Luật thuế GTGT (sửa đổi) gồm 4 Chương, 16 Điều. Dự thảo Luật về cơ bản vẫn được kế thừa từ Luật hiện hành nhưng có chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với nội dung chính sách. Theo đó, dự thảo Luật:
- Giữ nguyên nội dung quy định tại 5 Điều của Luật thuế GTGT hiện hành gồm: phạm vi điều chỉnh (Điều 1); thuế GTGT (Điều 2); đối tượng chịu thuế (Điều 3); căn cứ tính thuế (Điều 6); phương pháp tính thuế (Điều 9).
- Bỏ 1 Điều của Luật thuế GTGT hiện hành quy định về hóa đơn, chứng từ (Điều 14).
- Sửa đổi, bổ sung các nội dung quy định tại 10 Điều của Luật thuế GTGT hiện hành gồm: người nộp thuế (Điều 4); đối tượng không chịu thuế (Điều 5); giá tính thuế (Điều 7); thuế suất (Điều 8); phương pháp khấu trừ thuế (Điều 10); phương pháp tính trực tiếp trên GTGT (Điều 11); khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Điều 12); các trường hợp hoàn thuế (Điều 13); hiệu lực thi hành (Điều 15); tổ chức thực hiện (Điều 16).
- Bổ sung 1 Điều quy định về thời điểm xác định thuế GTGT.
Đối với những nội dung sửa đổi, bổ sung, dự thảo Luật đã bám sát theo 5 nhóm chính sách tại hồ sơ lập đề nghị xây dựng dự án Luật thuế GTGT (sửa đổi) đã được UBTVQH đồng ý gồm: Hoàn thiện các quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT; Hoàn thiện các quy định về giá tính thuế GTGT; Hoàn thiện các quy định về thuế suất thuế GTGT; Hoàn thiện các quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào; Hoàn thiện các quy định về hoàn thuế GTGT...
Đề nghị giải trình, làm rõ thêm nhiều nội dung
Trình bày Báo cáo Thẩm tra sơ bộ Dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh cho biết, Thường trực Ủy ban TCNS nhất trí về sự cần thiết sửa đổi Luật để giải quyết các bất cập trong thực tiễn cũng như hoàn thiện chính sách thu...
Cụ thể, về bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch của nội dung sửa đổi, bổ sung: quan điểm chỉ đạo đã được xác định trong sửa đổi Luật là “Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung phải có quy định rõ ràng, minh bạch, có đánh giá tác động cụ thể”. Tuy nhiên, nhiều nội dung sửa đổi chưa đáp ứng được yêu cầu này…
Về các trường hợp không phải nộp thuế GTGT đầu ra nhưng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào: khoản 1 Điều 5 dự thảo Luật quy định “doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mua sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường khi bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khác thì không phải tính, nộp thuế GTGT nhưng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào”.
Ngoài ra, Nghị định số 209/2013/NĐ-CP hiện đang quy định một số trường hợp khác cũng được áp dụng cơ chế không tính thuế GTGT đối với đầu ra nhưng vẫn được khấu trừ toàn bộ thuế GTGT đầu vào, bao gồm cả trường hợp “Tổ chức, cá nhân chuyển nhượng dự án đầu tư để sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT cho doanh nghiệp, hợp tác xã”.
Thường trực Ủy ban TCNS đề nghị Chính phủ giải trình rõ cơ sở pháp lý của các quy định này tại Nghị định số 209/2013/NĐ-CP và lý do quy định cho phép khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các trường hợp đầu ra không phải tính thuế hoặc thuộc đối tượng không phải chịu thuế GTGT.
Về mức doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT: Khoản 25 Điều 5 dự thảo Luật sửa đổi quy định hàng hóa, dịch vụ của hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT (theo quy định của Luật hiện hành) thành “dưới mức do Chính phủ quy định”.
Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, việc sửa đổi, điều chỉnh quy định về ngưỡng doanh thu hàng năm thuộc diện không chịu thuế GTGT là cần thiết để phù hợp với thực tế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và cần được quy định cụ thể trong Luật để xác lập căn cứ pháp lý rõ ràng.
Do đó, đề nghị Chính phủ tính toán, cân nhắc các yếu tố liên quan trên bình diện chung của các chính sách hiện hành (như mức giảm trừ gia cảnh của thuế TNCN, chuẩn nghèo đa chiều mới, GDP/đầu người tại thời điểm hiện nay đã tăng hơn 2 lần so với thời điểm năm 2013 khi mức ngưỡng doanh thu 100 triệu đồng được xây dựng,…) để quy định cụ thể mức ngưỡng này trong dự thảo Luật.
Về việc miễn thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu có giá trị nhỏ dựa trên thực tế là số thuế thu được không đáng kể so với chi phí quản lý thu của cơ quan hải quan và chi phí tuân thủ của người nộp thuế. Hiện nhiều nước đã bỏ quy định miễn thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu có giá trị nhỏ để bảo vệ nguồn thu, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa hàng sản xuất trong nước và nhập khẩu. Vì vậy, đề nghị Chính phủ tham khảo xu thế chung để cân nhắc bỏ quy định này, tạo điều kiện mở rộng và bao quát các nguồn thu trong bối cảnh hạn chế về ngân sách hiện nay. Đồng thời, đề nghị Chính phủ giải trình về cơ sở pháp lý của Quyết định số 78/2010/QĐ-TTg đối với nội dung nêu trên.
Về giá tính thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh bất động sản (Điều 7): Dự thảo Luật giữ nguyên quy định hiện hành và chỉ bổ sung nội dung “Chính phủ quy định việc xác định giá đất được trừ...”. Thường trực Ủy ban TCNS nhận thấy, các quy định liên quan đến giá đất được trừ để tính thuế GTGT đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản trên thực tế đã được quy định tại Nghị định của Chính phủ.
Do đó, đề nghị Chính phủ rà soát để luật hóa các nội dung liên quan đã được quy định tại các văn bản dưới Luật, thực hiện ổn định, không phát sinh vướng mắc trong thực tiễn để bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng. Trong trường hợp không thể quy định trong Luật, đề nghị Chính phủ giải trình cụ thể về định hướng quy định tại Nghị định và nội dung này cần được xem xét, đánh giá kết hợp với các nội dung theo quy định của Luật Đất đai mới được ban hành…