Chính sách mở đường, địa phương hành động - Kỳ 1: Lộ trình cho kinh tế tư nhân
Từ nghị trường Quốc hội đến từng xưởng sản xuất, từ các điều khoản luật khô khan đến hy vọng của chủ doanh nghiệp (DN), NQ 68-NQ TW mở ra một dấu mốc lịch sử -hành trình 'khai phóng' cho kinh tế tư nhân.

Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”, đồng thời tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của DN nhà nước, tạo nên đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Doanh nhân Việt Nam không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn là “chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”.

Về những hạn chế, điểm nghẽn cầm chân kinh tế tư nhân, giới chuyên môn từng ví von: “Hành lang pháp lý rộng mở, nhưng cửa sản xuất vẫn hẹp”. Giống một tuyến cao tốc hiện đại, nhưng phương tiện vẫn loay hoay ở trạm thu phí, khi bị kẹt ở nút thắt hành chính.
Tại nghị trường Quốc hội, trong khuôn khổ Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, ông Nguyễn Hải Nam, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) hoạt động chuyên trách tại Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội, nhấn mạnh: Nhiều năm qua, chúng ta vẫn loay hoay với thủ tục rườm rà, mà gốc rễ nằm ở thể chế. Muốn đổi mới thể chế, phải dám nhìn vào thực tế và cắt bỏ những phần lỗi thời.

Thực tế từ DN cũng minh chứng. Ông Trần Văn Mỹ, Chủ tịch Hiệp hội DN TP. Huế bày tỏ, thủ tục đầu tư, đặc biệt là về đất đai, từ chuyển đổi mục đích sử dụng đến đấu giá, thuê đất vẫn là rào cản lớn. Về tín dụng, nhiều DN nhỏ và vừa khó tiếp cận vốn ưu đãi vì yêu cầu về tài sản thế chấp, lịch sử tín dụng. Dù có chủ trương khơi thông dòng vốn, nhưng phía ngân hàng vẫn e ngại rủi ro, chưa thực sự cởi mở với các phương án mới, đặc biệt là khởi nghiệp sáng tạo.
Ông Mỹ nhấn mạnh thêm: “Trong bối cảnh Huế đang xây dựng chiến lược thu hút và giữ chân nhà đầu tư, niềm tin thể chế là vốn quý nhất. Để củng cố niềm tin này, chính quyền cần tập trung vào ba trụ cột: Nhất quán, minh bạch trong hành động hành chính; bảo đảm công bằng, bảo vệ nhà đầu tư tuân thủ luật pháp; và có cơ chế hỗ trợ đổi mới sáng tạo cụ thể, minh bạch. Niềm tin thể chế chính là cam kết dài hạn, có giá trị hơn mọi bản ghi nhớ”.

Ông cũng đề xuất thành phố xây dựng cơ chế hỗ trợ theo ngành nghề (công nghiệp văn hóa, chế biến thực phẩm bản địa, du lịch thông minh), đồng thời đóng vai trò “kết nối chiến lược” trong chuỗi giá trị mở rộng, từ nông sản, thủ công mỹ nghệ đến công nghiệp văn hóa.
Theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội, hiện có hơn 2.000 dự án trên cả nước bị ách tắc ở khâu chấp thuận chủ trương đầu tư. Đại biểu Nguyễn Hải Nam cho rằng, những yếu tố như, địa điểm, mục tiêu, quy mô, vốn… đã được luật chuyên ngành quy định rõ; các bước thẩm định kỹ thuật, đánh giá tác động môi trường, quy hoạch… đều có cơ quan phụ trách. “Không lý gì lại cần thêm một lớp “xin phép” nữa để được đầu tư. Mỗi ngày trễ là thêm chi phí, là cơ hội bị đánh mất. DN không thể chờ đợi mãi”, ông Nam nhấn mạnh.

Trong khuôn khổ Kỳ họp thứ 9, nhiều ĐBQH cũng lưu ý: Không chỉ vốn và thủ tục, mà mặt bằng sản xuất vẫn là rào cản. Nhiều địa phương có đất, nhưng lại không dành quỹ đất hợp lý cho DN tư nhân. Riêng với khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, việc thiếu tài sản thế chấp khiến nhiều sáng kiến vốn là “vàng” trong thời đại số vẫn không được ngân hàng coi là đảm bảo.

NQ 68 đặt ra một loạt cải cách mạnh mẽ: Hoàn thiện thể chế; bảo vệ quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh; khơi thông các nguồn lực đất đai, tín dụng, thị trường, công nghệ; thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp; xây dựng đội ngũ doanh nhân hiện đại, bản lĩnh, giàu trí tuệ và tinh thần dân tộc…
Điểm đáng chú ý là NQ này không chỉ “thừa nhận” mà còn “bảo vệ, khuyến khích và thúc đẩy” kinh tế tư nhân, chuyển từ vai trò “bổ trợ” sang “dẫn dắt phát triển”. Đây là lựa chọn chiến lược, cấp thiết và mang tầm nhìn dài hạn, hướng tới hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường vào giữa thế kỷ XXI.
Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV vì thế không đơn thuần là một kỳ họp lập pháp định kỳ. Nhiều đại biểu coi đây là bước ngoặt “khơi thông thể chế” - nơi hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân, được thiết kế rộng rãi, nhất quán và mang tính đột phá.
Đại biểu Nguyễn Hải Nam phân tích: Hiện, Việt Nam có ba khu vực kinh tế chính, Nhà nước, FDI và tư nhân, mỗi khu vực có vai trò riêng, song khu vực nhà nước và FDI đều bộc lộ giới hạn, đặc biệt là sự phụ thuộc vào vốn, công nghệ và thị trường quốc tế.

“Khi thế giới biến động, những gì không thuộc về mình sẽ không còn là điểm tựa. Phải phát triển khu vực tư nhân mạnh, có năng lực cạnh tranh thực sự thì mới nói đến tự lực, tự cường”, ông Nam nhấn mạnh.
Trích tinh thần từ bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm, ông Nam nhìn nhận, việc chuyển toàn bộ quy trình hành chính sang cơ chế hậu kiểm là bước đi cần thiết, phù hợp thông lệ quốc tế và đặc biệt thích hợp với nền kinh tế số đang phát triển nhanh ở Việt Nam.

Tại Huế, hiện có hơn 9.000 DN đang hoạt động, trong đó trên 90% là DN nhỏ và siêu nhỏ. Đây là con số cho thấy cộng đồng DN năng động, nhưng cũng phản ánh thực tế: Chưa nhiều tập đoàn lớn chọn Huế làm cứ điểm sản xuất hoặc trung tâm R&D. Nguyên nhân không phải do thiếu tiềm năng. Huế sở hữu vị trí địa lý chiến lược, giá trị văn hóa đặc sắc, nguồn nhân lực có trình độ và hạ tầng đô thị đang nâng cấp mà do còn tồn tại nhiều “nút thắt” về thủ tục, tiếp cận đất đai và vốn.
“Để tháo gỡ, Huế cần đột phá hơn trong cải cách thủ tục hành chính, tăng minh bạch, đồng thời nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, những người trực tiếp tiếp nhận và xử lý yêu cầu từ DN. Song, cần sớm có cơ chế đặc thù tạo thuận lợi cho DN tiếp cận đất đai và nguồn vốn - hai yếu tố then chốt thúc đẩy đầu tư và phát triển kinh tế địa phương”, Chủ tịch Hiệp hội DN TP. Huế Trần Văn Mỹ đề xuất.

NQ 68 của Bộ Chính trị đặt ra những mục tiêu rõ ràng: Đến năm 2030, cả nước có 2 triệu DN, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 55–58% GDP. Để đạt được, nghị quyết yêu cầu hàng loạt cải cách: Chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, hạn chế tối đa thanh tra chồng chéo, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, và đặc biệt là mở rộng cơ hội tiếp cận vốn thông qua các công cụ như quỹ bảo lãnh tín dụng, cho vay ngang hàng, trái phiếu DN nhỏ, và ngân hàng số.
Một điểm mới được đánh giá cao là yêu cầu Chính phủ xây dựng hệ sinh thái số dành cho DN nhỏ và siêu nhỏ, bao gồm kế toán điện tử đơn giản, phần mềm quản trị miễn phí và tư vấn chuyển đổi số. Với một địa phương mà hơn 90% DN có quy mô nhỏ như Huế, đây chính là “bộ công cụ” thiết thực để nâng cấp năng lực cạnh tranh, giúp họ không bị bỏ lại phía sau trong dòng chảy kinh tế số.

Tuy nhiên, những điểm sáng này chỉ thực sự phát huy nếu được cụ thể hóa thành chính sách ở địa phương. DN mong chờ một “bản đồ chính sách” sau kỳ họp Quốc hội, nơi toàn bộ luật, nghị quyết, hướng dẫn được tập hợp, phân loại theo ngành và công khai minh bạch. Họ muốn đối thoại không phải để kiến nghị chung chung, mà để cùng chính quyền giải bài toán cụ thể: Thuê đất nhanh hơn, xin giấy phép dễ hơn, tiếp cận vốn thuận lợi hơn, và được bảo vệ quyền lợi chính đáng khi xảy ra tranh chấp.
Nhìn từ nghị trường về địa phương, chính quyền TP. Huế đang đứng trước bước ngoặt lớn về phương thức quản trị.
Ngay sau Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV thông qua nhiều chính sách quan trọng, TP. Huế đã có những chuyển động rõ nét. Một tín hiệu tích cực là UBND thành phố và các sở, ngành đã nhanh chóng tổ chức các hội nghị chuyên đề, cụ thể hóa chính sách theo từng lĩnh vực, như thuế mới cho DN nhỏ và vừa; quy hoạch sử dụng đất trong đô thị di sản; lộ trình ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất và thương mại. Việc mời chuyên gia từ trung ương và các DN điển hình chia sẻ kinh nghiệm giúp thông tin được truyền tải kịp thời, sát thực tiễn.

Song song, thành phố xây dựng cổng thông tin điện tử tra cứu chính sách, phát hành bản tin pháp lý định kỳ bằng ngôn ngữ dễ hiểu một cách tiếp cận đặc biệt hữu ích với DN vừa và nhỏ, vốn thường “bị bỏ lại” trong các đợt cải cách.
“Ấn tượng rõ nhất là sự thay đổi trong tinh thần và thái độ phục vụ: Từ “ban hành - ban bố” sang “đồng hành - hỗ trợ”. Các kênh tiếp nhận phản hồi mở, phản ứng nhanh và mang tính xây dựng đã khiến nhiều DN cảm nhận rõ sự sát cánh của chính quyền trong giai đoạn kinh tế nhiều biến động”, Chủ tịch Hiệp hội DN TP. Huế Trần Văn Mỹ chia sẻ.
Sự chuyển mình từ tư duy quản lý sang phục vụ đang giúp Huế khẳng định vai trò là một đô thị di sản năng động, biết thích ứng với các chính sách lớn của quốc gia, đồng thời tạo dựng niềm tin trong cộng đồng DN. Các Chỉ số cải cách hành chính (PARINDEX) Huế xếp thứ 7, tăng 10 bậc; chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) xếp thứ 6, tăng 2 bậc so với năm trước là năm thứ 4 liên tiếp nằm trong tốp 10 cả nước.
TS.Cung Trọng Cường, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP. Huế, nhấn mạnh: “Chuyển từ hành chính sang quản trị không chỉ là thay đổi văn bản, mà là thay đổi cách tiếp cận: Coi DN là đối tác thay vì đối tượng quản lý; coi hiệu quả là chỉ số chính, chứ không phải số lượng công văn xử lý”.
