Chờ đợi những giải pháp thiết thực hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu

Từ quý IV/2022 cho tới nay, các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như giày dép, dệt may, đồ gỗ- nội thất, nông nghiệp, chế biến chế tạo,... phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh, buộc nhiều doanh nghiệp trong nhóm này đã rút lui khỏi thương trường, thậm chí 'một đi không trở lại'.

Xuất nhập khẩu đối mặt với nhiều khó khăn

Số liệu từ Bộ Công Thương cho thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đang giảm mạnh so với năm ngoái. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 210,79 tỷ USD, giảm 13,6% so với cùng kỳ năm trước.

Về xuất khẩu, trong 4 tháng đầu kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tới hầu hết thị trường, đối tác thương mại lớn đều giảm. Trong đó, 3 thị trường xuất khẩu lớn là Mỹ, Trung Quốc và EU giảm mạnh so với cùng kỳ 2022, mức giảm lần lượt là 21%, 7,9% và 14,1%. Các thị trường còn lại cũng giảm như ASEAN, Hàn Quốc hay Nhật Bản cũng giảm.

Ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho rằng, nhập khẩu nhiều, thậm chí là nhập siêu chưa hẳn đã là xấu. Bởi vì, Việt Nam nhập khẩu nhiều, chứng tỏ các doanh nghiệp đang làm ăn được, nhập khẩu nhiều nguyên, vật liệu để sản xuất. Ngược lại, nếu nhập khẩu mà giảm mạnh, đây mới là điều đáng lo.

Theo bà Hà Thị Kim Nga - cán bộ kinh tế cao cấp Văn phòng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Mỹ và EU là 2 trong số 3 thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, thế nhưng 2 thị trường này đang chịu ảnh hưởng nặng nề do lạm phát, dẫn đến sức mua giảm, người dân thắt chặt chi tiêu. Điều này đã trực tiếp ảnh hưởng tới kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Bà Nga cho rằng, sự phục hồi của 2 thị trường xuất khẩu lớn này ra sao phụ thuộc rất nhiều vào việc điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát lạm phát của họ như thế nào. Tất nhiên, điều này không thể “một sớm một chiều”.

“Đây cũng là thử thách rất lớn đối với nhiều doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam hiện nay. Nhiều doanh nghiệp thuộc các nhóm các ngành xuất khẩu “mũi nhọn”, nay đã buộc phải tính toán lại “kế hoạch đường dài” thay vì kỳ vọng”, bà Nga nói.

PGS.TS Trần Hoàng Ngân - Đại biểu Quốc hội khóa XV, thuộc Đoàn Đại biểu TP.HCM cho rằng, với doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, hiện tại khó khăn nhất là về thị trường. Thị trường nước ngoài đang rất bấp bênh khi kinh tế thế giới trên đà suy giảm.

“Việt Nam là quốc gia có độ mở kinh tế rất lớn, vì thế, khi thế giới bên ngoài có nhiều yếu tố bất định, cũng sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế của chúng ta. Do đó, cần đặt ra bài toán nghiêm túc để kiểm soát độ mở nếu muốn xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ”, PGS.TS Trần Hoàng Ngân nói.

Trên thực tế, doanh nghiệp bắt đầu khó khăn khi có đại dịch COVID-19 trong 2 năm 2020-2021. Sang năm 2022, gặp phải xung đột Nga - Ukraine, dẫn đến thị trường xuất khẩu bị thu hẹp. Sau đó là ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực, khủng hoảng nhân đạo…

“Vì vậy, bản chất năm 2022, doanh nghiệp phục hồi nhưng trong hoàn cảnh khó khăn của thế giới, nên chỉ phục hồi trong nửa đầu năm, đến quý III/2022 đến nay bắt đầu chậm lại”, PGS.TS Trần Hoàng Ngân cho biết.

PGS.TS Trần Hoàng Ngân cũng cho rằng, bên cạnh kích cầu thị trường nội địa, các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần giải quyết bài toán vốn cho doanh nghiệp. Theo ông Ngân, hiện nay, doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận vốn ngân hàng, các điều kiện vay là tương đối khó khăn. Do đó, ông Ngân đề xuất là cần khôi phục, củng cố và phát triển Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quỹ này được thành lập từ ngân sách, thu từ thuế mà các doanh nghiệp đóng khi hoạt động tốt. Việc này giống như dùng mô hình của quỹ để bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn, duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Trong khi đó, số liệu của Bộ Công Thương cũng cho thấy, trong 4 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt 102,22 tỷ USD, đã giảm 15,4% so với cùng kỳ 2022.

Theo TS. Phạm Sỹ Thành - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Trung Quốc (CESS), mô hình kinh tế Việt Nam và cũng như các nước ASEAN hiện nay đều là nhập khẩu rất nhiều từ Trung Quốc và xuất khẩu sang Mỹ, EU và các nước khác.

“Nếu một trong các yếu tố cấu thành chuỗi sản xuất bị xảy ra vấn đề, sẽ ảnh hưởng đến sản xuất, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ bị chững lại”, ông Thành cảnh báo.

Cần có giải pháp thiết thực

Trước những khó khăn như trên, nhiều chuyên gia kiến nghị cần phải có giải pháp kích cầu thị trường trong nước, để có đầu ra cho các sản phẩm được sản xuất trong nước.

PGS.TS Trần Hoàng Ngân cho rằng, nếu thị trường quốc tế khó khăn kéo dài thì phải tính đến thị trường trong nước 100 triệu dân. Tuy nhiên, thị trường trong nước thì lại phụ thuộc vào sức cầu của nền kinh tế. Người dân đã bị thiệt hại nhiều sau 2 năm dịch COVID-19 khiến sức mua thời gian gần đây giảm sút.

“Tôi cho rằng, Chính phủ cần quan tâm đến gói hỗ trợ an sinh xã hội. Gói này vừa giúp giảm khó khăn cho những người lao động bị cắt giảm việc làm, hộ gia đình khó khăn, gia đình chính sách… Hơn nữa, gói sẽ giúp kích cầu, tăng tổng cầu cho nền kinh tế”, ông Ngân nói.

Đồng tình với nhận định này, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh - chuyên gia kinh tế thì cho rằng: Kích cầu nội địa vẫn sẽ là chìa khóa duy nhất để “cứu” tiêu dùng khi thị trường xuất khẩu bị ảnh hưởng. Bởi doanh nghiệp gặp khó khăn xuất khẩu sẽ có chiến lược quay về thị trường nội địa.

“Với tình hình tiêu dùng trong nước hiện nay đang suy giảm, cần có giải pháp đi kèm, trong đó giảm giá sẽ là hữu hiệu nhất để kích cầu. Nhưng muốn giảm giá doanh nghiệp sản xuất buộc phải giảm chi phí sản xuất đầu vào. Và để làm được điều ấy đòi hỏi Nhà nước có những chính sách hỗ trợ thực sự hiệu quả dành cho doanh nghiệp”, ông Thịnh nói.

Nhiều doanh nghiệp cho biết họ đang chịu nhiều áp lực về việc tăng giá các mặt hàng khi chi phí đầu vào sản xuất không giảm, vẫn ở mức cao. Vừa qua, việc Chính phủ đề xuất Quốc hội giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) 2% được xem là tín hiệu tốt cho cả người dân lẫn doanh nghiệp, khi thông qua có thể giúp tiêu dùng nội địa khởi sắc sau thời gian dài ảm đạm.

Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ. Để tiếp tục duy trì sức mua còn phải cần nhiều công cụ hơn, trong đó có cả việc bình ổn giá cả các mặt hàng thiết yếu đóng vai trò đầu vào quan trọng cho sản xuất như xăng dầu, điện, than.

Thế nhưng, trong khi chính sách kích cầu tiêu dùng trong nước chưa kịp phát huy hiệu quả, chi phí đầu vào sản xuất lại có dấu hiệu tăng lên và “lấn át”. Có thể thấy rằng, mỗi đợt điều chỉnh giá điện, hoặc giá xăng tăng đều đẩy giá cả hàng hóa leo cao. Do đó, nhiều chuyên gia đánh giá, để các chương trình kích cầu tiêu dùng phát huy được hiệu quả, nhất thiết phải bình ổn giá cả của nguyên nhiên liệu đầu vào rất quan trọng.

Nguyệt Hồ

Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/cho-doi-nhung-giai-phap-thiet-thuc-ho-tro-doanh-nghiep-xuat-khau-post252470.html