Chú trọng đào tạo để cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao
Chia sẻ giải pháp nhằm xây dựng mối quan hệ lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Diễn đàn 'Nâng cao năng suất lao động Quốc gia năm 2024' do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức sáng 26/5, nhiều đại biểu cho rằng, nguồn cung lao động ở Việt Nam rất dồi dào, tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao.
Do đó, cần phải có giải pháp đồng bộ, nhất là đầu tư vào công tác đào tạo, tuyển dụng để cung ứng được nguồn nhân lực chất lượng cao ra thị trường…
Nguồn cung dồi dào nhưng thất nghiệp vẫn cao
Phân tích tầm quan trọng của việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, nhất là chính sách phát triển và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần quan trọng nâng cao năng suất lao động quốc gia, Vụ trưởng Vụ Dự báo và Phân tích kinh tế - Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Tú Anh cho biết, năng suất lao động là thước đo hoạt động kinh tế của quốc gia, để tính toán, so sánh lượng giá trị gia tăng được tạo ra tính trên đầu người, nghĩa là năng suất lao động được tính bằng GDP/số lao động, việc làm trong năm.
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, năng suất lao động của Việt Nam trong năm 2022 là 20,4 nghìn USD, chỉ bằng 11,4% mức năng suất lao động của Singapore; 35,4% của Malaysia; 64,8% của Thái Lan; 79% của Indonesia…
Nhìn vào con số này thì năng suất lao động của Việt Nam còn thấp, nhưng nhìn kỹ vào cơ cấu kinh tế Việt Nam, phần lớn người lao động làm việc trong khu vực phi chính thức và hộ gia đình. Số lượng người lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp chỉ chiếm 29,2% lao động làm việc trong năm 2022, mặc dù vậy, số lượng lao động này lại tạo ra 60% GDP cho nền kinh tế, trong đó, khu vực tư nhân là 10%, khu vực doanh nghiệp FDI là 20%...
Vì vậy, một trong những vấn đề được quan tâm, đó là số lượng doanh nghiệp thành lập cần đẩy mạnh để đạt mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025, 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030.
Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội Phạm Xuân Khánh cho rằng, phát triển nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Hiện nay, Việt Nam có nguồn cung lao động dồi dào và khả năng thích nghi cao, được đánh giá là tiếp thu nhanh những tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong sản xuất và kỹ năng quản lý. Cơ cấu lao động đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỉ lệ lao động tham gia lực lượng lao động trong độ tuổi vẫn duy trì ở mức cao...
Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng thiếu lao động do dư thừa lao động có chất lượng thấp, lao động không có trình độ chuyên môn chiếm tỉ lệ lớn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi trong các lĩnh vực, khả năng tự tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp còn nhiều hạn chế. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã phải thuê lao động nước ngoài. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp ngày càng gia tăng ở nước ta hiện nay.
Cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao
Theo các ý kiến tham luận tại diễn đàn, trong bối cảnh hiện nay, hệ thống giáo dục nghề nghiệp cần phải đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học, tập trung đào tạo chất lượng cao, đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, chuyển từ hướng “cung” sang hướng “cầu”, đào tạo gắn kết với nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đòi hỏi lao động tay nghề cao ở các lĩnh vực công nghệ tiên tiến.
Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội kiến nghị Chính phủ cần xây dựng một số cơ sở đào tạo chất lượng cao, đạt chuẩn quốc tế, thực hiện được chức năng trung tâm vùng, quốc gia. Trong đó, chú trọng đầu tư đồng bộ, mở các ngành, nghề mới theo hướng công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn 4.0, ngân sách hỗ trợ mở các nghề mới theo nhu cầu sử dụng lao động của xã hội; chia sẻ dữ liệu tuyển sinh đại học, xây dựng các chương trình đào tạo cho phép liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức đào tạo; dự báo nhu cầu nhân lực theo cơ cấu ngành, nghề, giới tính và trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo từng giai đoạn, làm căn cứ cho các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp
Ban hành chính sách đồng bộ, hỗ trợ học phí cho học sinh học nghề, đặc biệt là các nghề có nhu cầu sử dụng lao động lớn nhưng ít người học để thu hút học sinh vào học nghề, góp phần thay đổi cơ cấu trình độ. Bố trí kinh phí cho công tác đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đặc biệt là đối với các nghề mới, các nghề công nghệ cao. Đẩy mạnh truyền thông cho đào tạo nghề. Quan tâm chính sách, chế độ đãi ngộ cho lực lượng đào tạo nghề, đặc biệt là các nghề mũi nhọn, đang là xu hướng.
Giám đốc nhân sự Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) Vũ Thị Mai cho rằng, việc duy trì năng suất lao động cao là một cơ sở quan trọng để Chính phủ quyết định ban hành một nghị định riêng về tiền lương cho Viettel và đây cũng là tiền đề quan trọng giúp Viettel có được thành tựu như hôm nay. Năm 2023, năng suất lao động theo doanh thu của toàn Tập đoàn là hơn 4,1 tỉ đồng/người/năm. Trong đó, tại 1 số đơn vị viễn thông, công nghệ số thì con số này là hơn 9 tỉ đồng/người/năm, tương đương với các doanh nghiệp tiên tiến trên thế giới cùng lĩnh vực.
Chia sẻ một số giải pháp để thúc đẩy năng suất lao động, bà Mai cho rằng, chất lượng nguồn nhân lực mang ý nghĩa quyết định đến việc thúc đẩy, nâng cao năng suất lao động. Viettel chú trọng lựa chọn nhân sự phù hợp trên cả 3 khía cạnh: Kiến thức, kỹ năng và thái độ. Việc tuyển dụng hay bổ nhiệm cán bộ quản lý các cấp ngoài dựa trên năng lực, thành tích thì cần cả yếu tố phù hợp với văn hóa.
“Chúng tôi luôn tuyển chọn được các nhân sự không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn có tinh thần sẵn sàng dấn thân, cống hiến. Viettel hiện đang sở hữu đội ngũ hàng nghìn nhân sự chất lượng cao trong các ngành viễn thông, làm chủ việc thiết kế, vận hành mạng lưới trên toàn cầu, các công nghệ 4G, 5G hay đội ngũ 300 chuyên gia an ninh mạng có tuổi đời rất trẻ nhưng đã giành được nhiều giải thưởng uy tín thế giới. Viettel cũng là doanh nghiệp dẫn đầu về số lượng sáng chế tại Việt Nam với 142 bằng bảo hộ trong nước, 17 bằng bảo hộ tại Mỹ và hơn 220 công nghệ lõi”, Bà Vũ Thị Mai nhấn mạnh.
Theo Vụ trưởng Vụ Dự báo và Phân tích kinh tế - Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Tú An, thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận nguồn lực như đất đai, vốn, tri thức, lao động, giảm chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước để phát triển nhanh hơn số lượng doanh nghiệp, tăng quy mô của doanh nghiệp.
Trọng tâm của chính sách kinh tế trong giai đoạn 2021-2030 nên tập trung vào ngành chế biến, chế tạo vì đây là khu vực động lực thúc đẩy năng suất lao động cả nền kinh tế. Chỉ khi năng suất lao động của ngành này tăng lên thì mới có thu nhập tăng thêm để chi tiêu cho ngành dịch vụ, qua đó, làm tăng năng suất lao động ngành dịch vụ. Nói cách khác, năng suất lao động ngành dịch vụ là phái sinh theo sau ngành chế biến, chế tạo.
Cùng với đó là thúc đẩy chuyển dịch lao động từ khu vực có năng suất lao động thấp sang khu vực có năng suất lao động cao, từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức bằng các giải pháp như chăm lo tốt hơn cho người lao động bằng chính sách nhà ở xã hội, không phân biệt hộ khẩu cho con em công nhân lao động trong học tập, tiếp cận, dịch vụ y tế...
"Nâng cao vai trò của Công đoàn để đây thực sự là chỗ dựa của người lao động trong việc ổn định cuộc sống; xử lý hài hòa vấn đề quan hệ lao động, đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động, đảm bảo lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư”, ông Nguyễn Tú Anh nhấn mạnh.