Chuẩn bị nguồn nhân lực cho định hướng phát triển mới

Để hiện thực hóa khát vọng trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, việc phát triển các ngành kinh tế mới, các lĩnh vực mũi nhọn dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là yêu cầu tất yếu và cấp bách. Các chuyên gia cho rằng, bối cảnh đó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, thích ứng nhanh và có năng lực đổi mới sáng tạo.

Mô hình kinh tế mới đòi hỏi tư duy mới, kỹ năng mới

Thế giới đang chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình kinh tế truyền thống sang các mô hình kinh tế hiện đại như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, và sự phát triển vượt bậc của các công nghệ cao như AI, Big Data, IoT, robot tự động hóa, blockchain, công nghệ sinh học...

Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội, những mô hình và công nghệ này không chỉ làm thay đổi cấu trúc kinh tế mà còn đặt ra yêu cầu hoàn toàn mới, rất cao về chất lượng, kỹ năng và năng lực tư duy đổi mới sáng tạo của nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Tọa đàm Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao cho việc định hướng phát triển kinh tế mới, lĩnh vực mới do Đoàn giám sát của UBTVQH tổ chức ngày 16/7/2025 thu hút sự tham gia của nhiều chuyên gia, nhà khoa học... Ảnh: Quang Khánh

Tọa đàm Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao cho việc định hướng phát triển kinh tế mới, lĩnh vực mới do Đoàn giám sát của UBTVQH tổ chức ngày 16/7/2025 thu hút sự tham gia của nhiều chuyên gia, nhà khoa học... Ảnh: Quang Khánh

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức phân tích, kinh tế số yêu cầu nguồn nhân lực có năng lực sử dụng thành thạo công nghệ số, công cụ làm việc trực tuyến, phân tích và quản trị dữ liệu; nắm vững các nguyên lý lập trình, an ninh mạng, thương mại điện tử, kinh doanh số; có tư duy đổi mới, thích ứng nhanh với môi trường công việc linh hoạt, tự động hóa và liên tục thay đổi.

Hay mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh gắn liền với phát triển bền vững, sử dụng tài nguyên hiệu quả, giảm phát thải và tái chế, đòi hỏi nguồn nhân lực am hiểu về khoa học môi trường, quản lý tài nguyên, công nghệ tái chế, năng lượng tái tạo; có khả năng thiết kế mô hình sản xuất - tiêu dùng theo hướng không rác thải, không phát thải carbon; có kỹ năng liên ngành để phối hợp giữa kỹ thuật - quản trị - chính sách.

Các ngành công nghệ cao đang thay đổi nền tảng của nền kinh tế và đòi hỏi đội ngũ nhân lực thành thạo lập trình, phân tích dữ liệu, vận hành và phát triển hệ thống tự động hóa, AI; có năng lực làm việc trong môi trường toàn cầu hóa, đa văn hóa, có khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ và thích ứng nhanh với các công nghệ mới nổi…

“Nhìn chung, các mô hình kinh tế hiện đại đang đặt ra yêu cầu cấp thiết và toàn diện đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, từ nội dung đào tạo, phương thức tổ chức, đến hệ thống chính sách pháp luật”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh.

Hiện nay, các quốc gia không còn cạnh tranh chủ yếu dựa trên tài nguyên thiên nhiên hay lao động giá rẻ, mà bằng năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng làm chủ công nghệ và trình độ phát triển của nền kinh tế tri thức. Các cường quốc và các nền kinh tế phát triển đều coi chiến lược thu hút và phát triển nhân tài là yếu tố cốt lõi để cạnh tranh, giành vị thế dẫn đầu trong các công nghệ then chốt.

Chỉ ra thực tế này, GS.TS Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, các quốc gia đang phát triển như Việt Nam gặp thách thức lớn khi phải đối mặt với nguy cơ kép: vừa "chảy máu chất xám", vừa bỏ lỡ cơ hội thu hút các dòng vốn đầu tư công nghệ cao do thiếu hụt nguồn nhân lực tại chỗ.

Nhu cầu nhân lực công nghệ cao tăng mạnh

Thời gian qua, các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đã chủ động đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ cao. Các chương trình đào tạo về công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI), các lĩnh vực điện - điện tử, kỹ thuật điện tử và liên quan đến chip bán dẫn và vi mạch, công nghệ Nano, công nghệ sinh học, hóa dược, công nghệ vật liệu mới và các công nghệ cao về chăm sóc sức khỏe… đã được triển khai ở nhiều trường đại học lớn. Chỉ riêng Đại học Quốc gia Hà Nội, sau 10 năm, cơ cấu tuyển sinh các ngành thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ và y dược đã tăng từ 8% năm 2013 lên 31% vào năm 2023. Tỷ lệ tuyển sinh vào các ngành kỹ thuật, công nghệ, khoa học máy tính và công nghệ thông tin trong toàn quốc đã tăng nhanh và chiếm tỷ lệ trên 30% trong năm 2024.

Sinh viên ngành Công nghệ sinh học, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội

Sinh viên ngành Công nghệ sinh học, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội

Bên cạnh đó, những năm gần đây đã xuất hiện mô hình gắn kết doanh nghiệp với nhà trường trong đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao. Nhiều doanh nghiệp lớn đã đầu tư phòng thí nghiệm hiện đại cho các cơ sở giáo dục đại học lớn như Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội… Đồng thời, đồng hành, hỗ trợ sinh viên trong thực hành thực tập ở doanh nghiệp.

Theo đánh giá của các chuyên gia, đối với lĩnh vực công nghệ thông tin, Việt Nam được xếp trong tốp 10 nước hàng đầu tại châu Á - Thái Bình Dương, tốp 30 thế giới về gia công và phát triển phần mềm. Cơ hội để Việt Nam thu hút FDI trong lĩnh vực công nghệ cao rất lớn. Điều này khiến cho nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ lĩnh vực công nghệ cao tăng mạnh.

Dẫn kết quả khảo sát với 1.779 đơn vị sử dụng lao động tại TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu (cũ), TS. Hồ Quốc Bằng, Phó Trưởng ban phụ trách Ban Đối ngoại và Phát triển dự án, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh cho biết, các đơn vị sử dụng lao động có xu hướng tuyển dụng nhân sự nhiều nhất ở lĩnh vực kỹ thuật, tiếp đến là công nghệ kỹ thuật, sản xuất và chế biến, kinh doanh và quản lý.

Tuy nhiên, thống kê cho thấy, ngành công nghệ thông tin đang thiếu khoảng 200.000 nhân lực. Mặc dù các trường đại học mỗi năm đào tạo khoảng 50.000 sinh viên công nghệ thông tin, nhưng chỉ khoảng 30% trong số đó có thể đáp ứng ngay yêu cầu công việc mà không cần doanh nghiệp đào tạo lại. Các ngành Dữ liệu lớn, Internet vạn vật, năng lượng tái tạo và kinh tế số đều đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ cao.

Để tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đạt được các mục tiêu phát triển KT-XH bền vững, việc giải quyết các thách thức về phát triển, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ cấp bách và mang ý nghĩa sống còn. Điều này đòi hỏi tư duy mới, cách tiếp cận toàn diện, đồng bộ và những giải pháp đột phá, quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, của các cơ sở giáo dục, tổ chức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp; học hỏi kinh nghiệm thành công của quốc tế và các mô hình hiệu quả trong nước.

Nhật Linh

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/chuan-bi-nguon-nhan-luc-cho-dinh-huong-phat-trien-moi-10381411.html