Chuyện của những dòng sông

Thiên nhiên đã ban tặng cho dải đất thân thương nước Việt biết bao dòng sông đẹp. Từ nước bạn chảy vào đất Mẹ, sông luồn qua khe núi, vạt rừng để lại đổ về đồng bằng, nuôi dưỡng các cánh đồng trước khi ra biển lớn. Nơi Hà thành phồn hoa cũng vậy. Những dòng sông chảy mãi, bồi lắng nên làng quê trù phú. Lạ hơn cả, năm nào bên sông mùa xuân cũng về sớm.

Dòng sông mang hình phố

Hà Nội vốn là một Thủ đô có rất nhiều sông hồ. Hệ thống mặt nước này tạo thành những nét đặc trưng và điểm nhấn cảnh quan đa dạng không nơi nào có được. Đã có thời, mạng lưới sông hồ của Hà Nội không chỉ là nguồn cung cấp nước hay thực phẩm quan trọng mà còn đóng vai trò hệ thống giao thông đường thủy nối kết Hà Nội với vùng miền lân cận. Các dòng sông và hồ nước là thành phần không thể tách rời với sự hình thành và phát triển của Hà Nội.

Sông mang hình phố, phố nương tựa vào sông. Qua bao lở, bồi, tán, tụ, ở mỗi thời khắc biến thiên của lịch sử, dòng nước đỏ Hồng Hà luôn như một chứng nhân, hội tụ linh khí đất đai để dưỡng nuôi muôn triệu cuộc đời con dân nước Việt.

Những con sông chảy qua Hà Nội đã bồi tụ nên những làng quê trù phú, những vốn văn hóa truyền thống độc đáo. Ảnh: Giang Nam

Những con sông chảy qua Hà Nội đã bồi tụ nên những làng quê trù phú, những vốn văn hóa truyền thống độc đáo. Ảnh: Giang Nam

Tôi từng không ít lần dùng xe chạy dọc con sông Nhuệ. Cũng thực kỳ lạ, sông Nhuệ tưởng chừng như thon nhỏ nhưng lại có dòng chảy dài tít tắp. Lấy nước từ sông Hồng, sông Nhuệ chảy dài qua các huyện Đan Phượng, quận Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm, huyện Thanh Trì, Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên… Không dừng lại ở đó, sông còn kéo đến tận mạn Hà Nam rồi mới hòa con nước để đổ ra biển lớn.

Dù có sự biến thiên là vậy nhưng sông Nhuệ vẫn là con sông gắn chặt với những trầm tích văn hóa từ những buổi đầu dựng nước và giữ nước của người Việt. Chẳng thế mà, ngược nơi thượng nguồn, ngay trên chính dòng sông này đã có những cuộc khởi nghĩa đi vào sử sách. Ấy là khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40-42) tại thượng nguồn sông Nhuệ. Chứng tích lịch sử đã phai nhạt ít nhiều song nếu để ý kỹ thì có thể thấy nay vẫn còn hội Chèo Tàu ở Tân Hội (huyện Đan Phượng) còn được truyền và giữ lại tích xưa.

Chẳng là, có thuyết kể lại rằng, xưa Hai Bà Trưng chống quân xâm lược đã từng kéo quân qua vùng Tổng Gối (vùng đất thuộc huyện Đan Phượng ngày nay). Thuyền chở quân khi ấy qua lại trên sông Nhuệ tấp nập, khí thế hào hùng. Tưởng nhớ công lao của Hai Bà, đồng thời mang tâm ý mô phỏng cảnh múa hát của quân tướng Hai Bà lúc nghỉ ngơi nên người dân Tổng Gối đã sáng tạo ra loại hình hát Chèo Tàu hay còn được gọi là hát Tàu Tượng để tưởng niệm. Ngày nay, đến Đan Phượng, nếu được tham gia hội hát này sẽ thấy người hát đều là nữ hoặc nữ giả nam. Đây cũng là nét riêng, nét đặc sắc của hội hát Chèo Tàu.

Không chỉ chứa đựng những trầm tích hào hùng của một thời giữ nước, sông Nhuệ còn là dòng chảy kinh thương, vun bồi cho sự trù phú của không ít những làng mạc, và Cự Đà là một trong số đó. Ở miền Bắc, làng Cự Đà bên dòng sông Nhuệ nổi tiếng giàu có. Để chứng thực điều này, tôi đã nhẩn nha đi dọc Cự Đà để nghe, để thấy cảnh xưa. Cự Đà giờ đã đô thị hóa nhiều, thế nhưng xen kẽ giữa lớp lang nhà cao tầng chót vót, những bức tường sơn mới thì vẫn còn những bức tường gạch đỏ, những mái ngói nhuốm màu rêu phong. Đi dọc con đường từ đình tỏa về các ngõ của làng, đâu đó vẫn phảng phất nhận ra được quy hoạch “xương cá” phổ biến. Nhiều con ngõ vẫn còn giữ được nét cổng xưa cũ. Bức tượng con cóc, có lẽ tượng trưng cho sự chiêu tài của vùng đất kinh thương vẫn còn án ngữ nơi góc khuất của làng.

Được sự giới thiệu của cán bộ công chức văn hóa xã Cự Khê Phan Thị Cúc, tôi tìm đến ông Vũ Văn Bằng, cựu Trưởng Ban văn hóa xã, là “pho sử sống” của làng Cự Đà. Nhắc đến làng, đến cảnh cũ người xưa, ông Bằng bảo, Cự Đà từng có thời điểm được ví von như “làng tỉ phú” là “phố trong làng” độc nhất vô nhị ở miền Bắc. Nói như vậy là bởi, nơi đây từng là nơi phát tích, quy tụ các nhà tư sản tài ba như cụ Cự Doanh, Cự Chân, Cự Phát… Họ đều là những chủ xưởng dệt, nhà máy, tiệm buôn, hãng vận tải lớn bậc nhất của Hà Nội giai đoạn 1920 - 1940.

Do là “làng tỉ phú” nên Cự Đà cũng là nơi có nhiều thứ mới lạ được du nhập sớm. Chẳng hạn, nơi đây là một trong những nơi đầu tiên có những ngôi nhà được xây cất theo kiểu Âu hóa, mà đặc trưng là kiến trúc Pháp. Nhà đẹp thì phải đánh số, người ta biết đến Cự Đà phần nhiều cũng bởi những số nhà được đánh sớm, đi trước nhịp phát triển xã hội dễ đến cả trăm năm. Đặc biệt hơn cả là Cự Đà còn là nơi có điện sớm bậc nhất của miền Bắc.

Ông Vũ Văn Bằng bộc bạch, sở dĩ Cự Đà phát triển được như vậy chính là bởi có giao thương thuận tiện. Ông cha ta từng có câu “nhất cận thị, nhị cận giang” để nói về điều kiện phát triển thương mại mà ở Cự Đà lại có cả hai. Đặc biệt, làng Cự Đà có nhiều điểm thích hợp để đóng bến bãi, thuận tiện cho thuyền bè neo đậu, xếp dỡ hàng. Ông Bằng quả quyết rằng, giờ đối chiếu ra các xóm, hướng thẳng về phía sông Nhuệ nếu đem đào lên thì vẫn có thể tìm được những dấu tích của những bến đỗ cho những chiếc thuyền 3 cánh buồm neo hàng.

Chẳng phải riêng sông Nhuệ đặc biệt, đôi lần tôi cũng xuôi về phía hạ lưu dòng sông Đáy. Sông Đáy có chiều dài khoảng 240km và chảy qua các tỉnh thành khu vực miền Bắc như Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định. Từ đoạn hạ nguồn là thị trấn Vân Đình (huyện Ứng Hòa, Hà Nội) sông dường như êm đềm, thong thả hơn. Cũng bởi dòng sông trôi nhẹ nhàng, êm ả nên cảnh hai bên bờ cũng vì thế thơ mộng và đẹp. Chẳng thế mà, Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã từng dành cho sông Đáy sự ưu ái đặc biệt. Trong thơ ông, sông Đáy đã gieo không ít những nỗi nhớ da diết, đó là hình bóng quê hương, là hình bóng mẹ: “Sông Đáy ơi! chiều nay tôi trở lại/ Những cánh buồm cổ tích đã bay xa về một niềm tức tưởi/ Em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò một ngày sông vắng nước/ Tôi chỉ gặp những bẹ ngô trắng trên bãi/ Chợt nhớ áo em tuột rơi trên bến vắng một trăng xưa/ Sông Đáy ơi, sông Đáy ơi chiều nay tôi trở lại/ Mẹ tôi đã già như cát bên bờ/ Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi…”. Sông lấp lánh trong thơ ca là vậy, ở ngoài đời thực thì sông cũng là người mẹ tảo tần giúp vun bồi nên những làng quê trù phú. Là nơi ươm mầm nên nghệ thuật rối cạn Tế Tiêu.

Trong một bài báo của mình, Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến, người đã có nhiều công trình khảo cứu về lịch sử Thăng Long - Hà Nội khẳng định, những con sông, ngoài việc góp phần định danh cho Hà Nội còn đóng vai trò quyết định trong việc hình thành văn hóa - các vùng văn hóa cho Hà Nội.

Lời thì thầm đắng đót

Lần giở lịch sử và chiêm nhiệm ở thời hiện đại mới thấy, các quốc gia trên thế giới hầu hết đều đặt các con sông ở một vị trí vô cùng quan trọng. Thậm chí, sông chảy qua thành phố đều được coi là báu vật, là di sản của quốc gia. Sông tạo ra môi trường, thiên nhiên, khác biệt với những nơi không có sông. Sông làm nên sự trù phú, có những thời điểm những con sông là huyết mạch, vừa để phòng thủ, vừa để giao thương.

Lễ hội đánh cá trên sông ở Sơn Tây. Ảnh: Giang Nam

Lễ hội đánh cá trên sông ở Sơn Tây. Ảnh: Giang Nam

Còn Hà Nội hiện tại thì sao? Trong quá khứ, những con sông trong nội đô đã từng là nơi bắt đầu của mọi bắt đầu. Sông là nguồn nước. Sông là nguồn sống. Nay, đáng buồn là sông hồ đang từng ngày bị thu hẹp và mất đi chức năng vốn có của nó. Chẳng khó để nhìn thấy, sông Hồng ngày một vơi cạn. Sông Nhuệ giờ cơ bản đã thu hẹp chỉ đọng lại bùn thải phía đáy. Do chặn dòng lưu thoát nên nước sông Nhuệ giờ vẩn đục, không còn cảnh thuyền bè chở hàng hóa cỡ đại, gắn ba cột buồm chạy băng băng trên mặt nước… như một thuở thương thuyền làm nên nét trù phú của Cự Đà.

Tương tự, nhìn trên nhiều bình diện, hiện một số con sông nội đô thuộc khu vực trung tâm Hà Nội, gồm: Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét đều bị thu hẹp và ô nhiễm. Quá trình bốc mùi của dòng sông “chết” làm ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến bầu không khí và sức khỏe của người dân dọc hai bên bờ sông. Điều này có thể thấy rõ những ngày thời tiết nắng nóng hoặc có gió.

Những dòng sông bị ô nhiễm ngoài nguyên nhân chủ quan từ hạ tầng xử lý nước thải không đảm bảo thì còn nguyên do khác xuất phát từ ý thức người dân. Một bộ phận người dân thường “xả” rác bừa bãi xuống cống, mương… gây tắc nghẽn ở hầu hết các tuyến thoát nước tại Hà Nội. Hệ lụy là hệ thống không thể tiêu thoát nước mỗi khi có mưa lớn kéo dài, dẫn đến đường phố bị ngập úng cục bộ.

Không khó để thấy qua những trận lụt lịch sử như năm 2008 hoặc cơn bão YaGi vừa qua, Hà Nội phải hứng chịu con nước lụt lịch sử. Mưa triền miên khiến phố phường khổ sở vì ngập lụt nhiều ngày. Ngập úng là vậy, nhưng sau đợt mưa lớn ấy dường như sông lại có cơ hội sống lại. Nước dâng cao là cơ hội để sông Tô Lịch, sông Nhuệ, sông Đáy… xả đi bao nhiêu tù đọng bấy lâu “giam hãm”. Nước đổ về khiến các dòng sông cuộn chảy, hệt như được “hồi sinh”. Người dân hai bên bờ sông hồ hởi, đổ ra câu cá, cất vó... Hình ảnh quá khứ được tái hiện.

Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Lũ rút. Mưa tạnh. Những con sông trong lòng phố trở về cảnh buồn bã cũ. Nước đen ngòm. Lờ đờ chảy. Mùi ô nhiễm bốc lên kinh khủng.

Nhiều chuyên gia đã phải thốt lên, đối với Hà Nội, việc phát triển đô thị không chỉ chú trọng yếu tố cây xanh mà còn phải đặc biệt quan tâm đến cả yếu tố mặt nước. Không phải cứ quy hoạch, cứ cống hóa là xong. Cần phải trả lại vẻ tự nhiên của các dòng sông để giúp điều tiết khí hậu, tạo cảnh quan môi trường và cơ hội phát triển du lịch thủy nội địa trong tương lai. Mong lắm. Sông mong mỏi và những người yêu sông cũng vậy. Tất cả đều đợi chờ sự hồi sinh diệu kỳ ấy.

Viễn cảnh về những dòng sông du lịch

Tôi có sở thích kỳ lạ, đó là những khi có thời gian, bất kể mùa nào hễ có cơ hội là tôi lại lên cầu Long Biên để hóng gió sông Hồng. Trên cây cầu lịch sử ấy, tôi có thể thỏa thuê ngắm nhìn sóng nước và nhịp sống bình yên của đôi bờ phố thị.

Tôi nhiệm ra rằng, có lẽ sông đẹp nhất là vào mùa xuân. Vì sao ư? Bởi ra ngoài Giêng, gió lạnh của mùa Đông chưa hết nhưng qua màn sương mỏng hơi ấm của mùa xuân và làn mưa bụi cũng đủ làm cho đất trời bật dậy những trồi non lộc biếc. Đứng trên cầu nhìn sang đôi bờ những bãi bồi của dòng sông bát ngát một màu xanh tươi non. Hình như mưa bụi mùa xuân không đủ sức làm cho nước dâng tràn ngập các bãi bồi. Dòng nước không đỏ đục như màu pha son hay đỏ hồng như màu hoa đào mà phớt hồng tựa như màu má người thiếu nữ.

Mùa xuân con nước sông Hồng có vẻ uể oải, chậm rãi, thủng thẳng buông xuôi về miền hạ lưu chứ không xiết chảy, cuồn cuộn như những cơn lũ mùa hạ. Thấp thoáng trên mặt nước dăm ba đám bèo tây hay cành củi mục dập dềnh vô định. Nhìn thế nhưng đừng lầm tưởng là con sông hiền khô. Thực ra mùa này sông lầm lì, phía dưới cái bề mặt lững lỡ kia là xoáy ngầm, sóng cuộn. Cuối thế kỷ trước, vào những đêm mùa xuân, mỗi khi ngang qua cây cầu, nhìn xuống lòng sông, ta dễ dàng trông thấy những ngọn đèn dầu le lói hắt ra từ những khoang thuyền ngư phủ trong thanh âm rả rích không ngớt của tiếng côn trùng, giữa lấp lánh của muôn vàn trăng sao.

Nhìn dòng sông lững lờ trôi, tôi chợt nhớ đến đận trò chuyện với Giáo sư Sử học Lê Văn Lan về phương cách làm sống lại dòng Tô Lịch, ông chia sẻ rằng, để sông có thêm những giá trị, không còn hoang phí hoặc chỉ mặc định là nơi thoát nước thải thì trước tiên cần trả lại cho sông Tô cái sự trong ngần như câu thơ: Sông Tô nước chảy trong ngần/ Có con buồm trắng chạy gần chạy xa.

Quả vậy, nếu nhìn rộng ra, nếu hệ thống sông trên địa bàn Hà Nội được hồi sinh thì sẽ mở ra những cơ hội lớn, đặc biệt là trong hoạt động du lịch. Nói cách khác, những dòng sông, hồ đầm trên địa bàn Thủ đô Hà Nội hoàn toàn có thể trở thành những đường kết nối, đường dẫn của những thủy trình trên đất Thăng Long; đưa du khách ngược dòng lịch sử - xuôi dòng văn hóa trên mảnh đất ngàn năm văn hiến. Như vậy, những dòng sông, hồ đầm trên đất Thủ đô nếu được nghiên cứu, chỉnh trang, xử lý tốt về mặt môi trường, đóng mới các phương tiện vận chuyển nội thủy phù hợp, phát triển các dịch vụ thích hợp... Tất cả những việc đó sẽ giúp cho du lịch Thủ đô khai thác tiềm năng của hệ thống giao thông đường thủy nội địa để tạo ra nét riêng của Du lịch Thủ đô mà không nơi nào có được.

Giang Nam

Nguồn LĐTĐ: https://laodongthudo.vn/chuyen-cua-nhung-dong-song-183272.html