Có căn cứ thu thuế nếu thừa nhận tài sản số như một loại tài sản
Theo các chuyên gia, trong trường hợp tài sản số được đưa vào Luật Công nghiệp công nghệ số, hay nói cách khác chúng ta thừa nhận tài sản số như một loại tài sản thì hoàn toàn có căn cứ để thực hiện thu thuế dựa trên pháp luật thuế hiện nay.
Năm 2021-2022, Việt Nam luôn nằm trong top 3 trên toàn cầu về người dân sở hữu tài sản số (nghĩa là 21% dân số Việt Nam sở hữu) chỉ sau UAE và Hoa Kỳ. Năm 2023, Việt Nam tụt 5 hạng, đứng thứ 7, trong khi Thái Lan và Singapore đã vươn lên đứng thứ 5 và 3.
Trao đổi tại Tọa đàm "Chính sách thuế - tài sản số và trách nhiệm của doanh nghiệp" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức chiều 21/8, ông Phan Đức Trung - Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam, rất nhiều quốc gia trong khu vực ban hành luật lệ, chính sách để thúc đẩy tạo ra hành lang pháp lý cho những dòng tài sản này đóng góp vào nền kinh tế mang giá trị tích cực chứ không thể có cách nhìn tiêu cực là ảnh hưởng tới ổn định kinh tế từng quốc gia nói riêng.
Theo các chuyên gia, với sự phát triển khoa học công nghệ mạnh mẽ như hiện tại, Việt Nam cần phải là điểm đến của các nhà đầu tư công nghệ số. Khi có pháp lý, công nghiệp công nghệ số dần được hình thành, phát triển mạnh mẽ, quyền và lợi ích của những người tham gia trong lĩnh vực này được bảo vệ.
Theo ông Trương Bá Tuấn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính), trong thời gian qua, với sự phát triển của công nghệ, tài sản số cũng phát triển rất mạnh trên thế giới. Chúng ta chưa có khung pháp lý liên quan đến tài sản số nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân. Vì vậy, cần thiết phải có khung pháp lý đồng bộ liên quan đến tài sản số, trong đó, phải xác định và làm rõ được định nghĩa tài sản số là gì cũng như vị trí pháp lý của tài sản số và những đặc trưng, đặc tính của tài sản số.
Đồng thời, theo chuyên gia này, để quản lý được tài sản số, chúng ta thừa nhận và quản lý nó như tài sản thì đòi hỏi sự tham gia của rất nhiều bộ, ngành có liên quan. Đáng chú ý, hiện nay, do hành lang pháp lý về tài sản số chưa được hoàn thiện, dẫn đến tình trạng thiếu rõ ràng trong việc xác lập quyền sở hữu và trách nhiệm thuế của doanh nghiệp.
Hiện nay, theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông được giao là đơn vị chủ trì xây dựng và đang lấy ý kiến góp ý rộng rãi các cấp, các ngành đối với dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số để trình Quốc hội xem xét và thông qua vào kỳ họp sắp tới. Trong Dự thảo luật này, lần đầu tiên tài sản số được định nghĩa tại Điều 8 của Dự thảo Luật: "Tài sản số là sản phẩm công nghệ số được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực quyền sở hữu bằng công nghệ chuỗi khối mà con người có quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật có liên quan".
Theo Phó Cục trưởng Trương Bá Tuấn, trong trường hợp tài sản số được đưa vào Luật Công nghiệp công nghệ số, hay nói cách khác chúng ta thừa nhận tài sản số như một loại tài sản thì chúng ta hoàn toàn có căn cứ để thực hiện thu thuế dựa trên pháp luật thuế của Việt Nam.
Đồng tình quan điểm này, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI nhấn mạnh: “Hiện nay có những giao dịch liên quan đến tài sản số. Về nguyên tắc, các giao dịch ấy cũng như các hàng hóa khác phải nộp thuế. Chúng ta có thuế VAT, đối với lĩnh vực này, nếu đây được coi là tài sản thì Nhà nước có thể thu thuế giao dịch, thuế thu nhập. Chúng tôi cho rằng đây cũng là nhu cầu rất chính đáng từ thực tiễn”.
Hiện nay, dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số mới nhất của Bộ Thông tin và Truyền thông không dùng khái niệm “tài sản số” mà chuyển sang dùng khái niệm “tài sản mã hóa”. Theo các chuyên gia, ngay cả khái niệm chúng ta cũng cần phải thống nhất để phân loại đúng, bởi vì mỗi tài sản số có thể phục vụ cho mục tiêu khác nhau, từ đó mới có căn cứ thực hiện việc thu thuế.
Đáng chú ý, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam cũng khuyến cáo, theo báo cáo của Công ty Kiểm toán PWC, kể cả khi có chính sách thuế, từ 55-95% các quốc gia bị thất thu thuế về ngành này.
“Lý do rất đơn giản là khi có chính sách ban hành, chúng ta không có một bên thứ ba giám sát. Có rồi nhưng các doanh nghiệp cũng không biết đường nào mà làm, dẫn đến từ 55-95% thất thu thuế. Chúng ta phải chuẩn bị đào tạo về nhận thức cho cả doanh nghiệp. Không phải họ cố ý mà họ không biết làm như thế nào, và họ tự đi vào thất thu thuế, cơ quan quản lý cũng không biết làm như thế nào”, ông Phan Đức Trung cho biết.