Cơ chế 'mở đường' để nông dân làm chủ nông nghiệp hiện đại
Ứng dụng công nghệ trong sản xuất tạo ra những đột phá, mang lại diện mạo mới cho ngành nông nghiệp. Tại Thanh Hóa, với vùng nguyên liệu 9.500 ha, từ năm 2022, Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn đã vận hành hệ thống 'mắt thông minh' (Smart Eye) tích hợp AI, drone và IoT. Hệ thống này giúp theo dõi độ ẩm đất, quản lý tưới tiêu, dinh dưỡng và phát hiện sớm sâu bệnh. Công ty cũng dùng bản đồ quản lý vùng nguyên liệu GIS kết hợp AI để phân tích quy trình canh tác và cảnh báo thời tiết. Nhờ đó, cán bộ kỹ thuật có thể theo dõi sát sao toàn bộ vùng nguyên liệu, giúp tăng đáng kể sản lượng và chất lượng mía.
Diện mạo mới, cơ hội mới
Năm 2024, sản lượng của công ty đạt 563.000 tấn, chất lượng mía tăng 10-15%. Đến tháng 4/2025, sản lượng tiếp tục lên 660.000 tấn. Trên cơ sở đó, công ty đặt mục tiêu đến năm 2026 sẽ mở rộng diện tích trồng mía lên 10.000 ha, với sản lượng ước đạt 750.000-800.000 tấn. Còn tại Bến Tre, tổng sản lượng nuôi tôm nước lợ ứng dụng công nghệ cao 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 38.400 tấn, năng suất bình quân 50 tấn/ha, giá bán cao hơn thị trường từ 2.000 - 10.000 đồng/kg. Để có được kết quả trên, tỉnh đã lắp đặt 14 trạm quan trắc môi trường tự động, giúp theo dõi 14 thông số nước phục vụ cảnh báo sớm, hỗ trợ người nuôi điều chỉnh quy trình sản xuất theo thời gian thực. Các ứng dụng công nghệ thông minh, như AI, dữ liệu lớn (Big Data), cũng đang được ngành nông nghiệp tỉnh phối hợp triển khai để nâng cao năng lực giám sát dịch bệnh và quản lý thức ăn.
Thành công của nông nghiệp công nghệ cao không chỉ nằm ở con số về diện tích, sản lượng hay giá trị kinh tế, mà quan trọng hơn, là thể hiện bước chuyển căn bản về tư duy sản xuất, từ nhỏ lẻ sang liên kết, từ truyền thống sang hiện đại.

Nông dân, doanh nghiệp và nhà khoa học phải cùng nhau tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp đổi mới sáng tạo
Làm gì để khai thác hết tiềm năng?
Tuy nhiên, ông Phạm Đức Nghiệm, Phó Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) chia sẻ một thực tế, hiện nhiều dự án nông nghiệp thông minh lại đang phát triển theo hướng “đóng kín”, chỉ phù hợp với doanh nghiệp lớn. Các công ty này đầu tư hệ thống nhà kính, nhà màng, tự động hóa từ gieo trồng đến thu hoạch, mà không cần tới sự tham gia của người nông dân. Những mô hình như vậy thường có chi phí đầu tư rất cao, đòi hỏi trình độ quản lý hiện đại, trong khi đại đa số nông dân không thể có điều kiện về cả tài chính lẫn kỹ thuật.
Bên cạnh đó, Việt Nam hiện phải nhập khẩu 80-90% hạt giống các loại rau như bắp cải, su hào, cà rốt, hành tây, dưa chuột, dưa lê... Ước tính mỗi năm, Việt Nam phải chi hơn 200 triệu USD cho hoạt động này. Trong khi đó, không ít công nghệ vẫn đang “kẹt” trong phòng thí nghiệm do thiếu chính sách thúc đẩy phù hợp, điển hình như công nghệ chọn tạo giống rau lai F1. Hiện Việt Nam gần như chưa làm chủ được giống rau lai F1 - yếu tố được ví như “nền móng” của nền nông nghiệp công nghệ cao vì quyết định năng suất, chất lượng và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đánh giá về vấn đề này, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp hiện nay còn manh mún, thiếu vườn ươm khởi nghiệp nông nghiệp công nghệ cao quy mô vùng để thử nghiệm mô hình mới trước khi nhân rộng. Công nghệ nội địa còn yếu, chủ yếu phụ thuộc thiết bị, giống, phần mềm từ nước ngoài. Còn thiếu liên kết chặt chẽ giữa viện nghiên cứu - doanh nghiệp - nông dân để chuyển giao tri thức và công nghệ một cách hiệu quả, bền vững.
Do đó, để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, điều đầu tiên là phải thay đổi cách tiếp cận chính sách, chuyển từ “khuyến khích” sang “kiến tạo” với cơ chế “mở đường”, chia sẻ rủi ro và thúc đẩy hợp tác nhiều bên... Khi Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, người dân, doanh nghiệp và nhà khoa học sẽ cùng nhau tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp đổi mới sáng tạo.
Để giải quyết những thách thức này, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn gợi mở nhiều hơn đến vai trò của người nông dân. Họ phải là người đồng kiến tạo và hưởng lợi bền vững, phải thật sự làm chủ. Muốn vậy, người nông dân cần trở thành chủ thể tri thức, phải được đào tạo về công nghệ số, thị trường, quản lý kinh tế nông trại; cần xây dựng các chương trình đào tạo thực hành tại chỗ, có sự tham gia của nhà khoa học và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các mô hình công nghệ cao cũng cần tạo cơ chế hợp tác công bằng, trong đó nông dân góp đất, góp công, cùng vận hành và chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp. Hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác sản xuất ứng dụng công nghệ cao nên được ưu tiên tiếp cận đất đai, tín dụng và kỹ thuật. Hệ thống chuyển giao khoa học, công nghệ phải thân thiện và phù hợp với thực tiễn, thông qua các trạm dịch vụ nông nghiệp cấp xã, huyện... PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn nhấn mạnh.