Có khoảng 200 công ty có hoạt động hoặc tham gia cung ứng dịch vụ, giải pháp Fintech tại Việt Nam
Số lượng các công ty có hoạt động hoặc tham gia cung ứng dịch vụ, giải pháp Fintech đã tăng nhanh chóng, từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2016 lên đến khoảng 200 công ty ở thời điểm hiện tại. Các công ty này hoạt động trong nhiều mảng, lĩnh vực khác nhau như: thanh toán, cho vay ngang hàng (P2P Lending), chấm điểm tín dụng, quản lý tài chính cá nhân...
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa trình Chính phủ Dự thảo Nghị định Quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Việc soạn thảo Nghị định này được NHNN khởi động từ năm 2021, trải qua 7 phiên bản dự thảo.
Tại dự thảo mới nhất, các giải pháp công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng được phép thử nghiệm đã được cơ quan soạn thảo rút xuống còn 3 cơ chế thử nghiệm gồm những lĩnh vực: Chấm điểm tín dụng; Chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API); P2P Lending.
NHNN cho biết, trong thời gian qua, ngành ngân hàng thế giới nói chung, ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng đã chứng kiến xu hướng ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ mới gắn với thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0.
Tại Việt Nam, số lượng các công ty có hoạt động hoặc tham gia cung ứng dịch vụ, giải pháp Fintech đã tăng nhanh chóng, từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2016 lên đến khoảng 200 công ty ở thời điểm hiện tại. Các công ty này hoạt động trong nhiều mảng, lĩnh vực khác nhau như: thanh toán, cho vay ngang hàng, chấm điểm tín dụng, quản lý tài chính cá nhân...
Các mảng, lĩnh hoạt động này của các công ty Fintech hầu hết hiện chưa có khung pháp lý toàn diện hoặc quy định pháp lý cụ thể để điều chỉnh, do đó có thể tiềm ẩn rủi ro, hệ lụy tiêu cực trên một số phương diện như cạnh tranh công bằng, ổn định tài chính, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, an ninh mạng.
Cùng với đó, đặt ra nhiều thách thức về mặt chính sách, quy định đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc hài hòa giữa thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cạnh tranh công bằng giữa các tổ chức tài chính truyền thống và công ty Fintech với đảm bảo ổn định tài chính, bảo vệ người tiêu dùng, an ninh mạng.
Đơn cử như trong hoạt động P2P Lending nổi lên tại Việt Nam trong giai đoạn gần đây, một số công ty lấy danh nghĩa mô hình P2P Lending lợi dụng sự thiếu kiến thức, hiểu biết của người dân để lừa bịp, gian dối, quảng cáo sai sự thật, hứa hẹn lợi nhuận cao, lãi suất cao để lừa đảo, chiếm đoạt tiền vốn của người dân bỏ tiền đầu tư mô hình cho vay này hoặc lừa dối người vay về lãi suất "thấp", điều kiện vay ưu đãi trong khi tính và áp dụng mức lãi suất thực tế cao "cắt cổ", tác động tiêu cực đến cuộc sống của người dân.
Một số thỏa thuận giữa các bên tham gia trong mô hình P2P Lending (công ty P2P Lending và nhà đầu tư, công ty P2P Lending và bên thứ ba, công ty P2P Lending và khách hàng vay…) thiếu rõ ràng, minh bạch, thiếu ràng buộc có tính pháp lý, chưa có cơ chế giám sát, hậu kiểm đối với việc sử dụng, quản lý vốn vay đúng mục đích của người đi vay, nên có thể dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện giữa các bên.
Theo NHNN, nhiều quốc gia trên thế giới đã có cách tiếp cận chủ động bằng việc thiết lập cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với hoạt động Fintech.
Trong xu hướng và bối cảnh trên, NHNN cho rằng Việt Nam cần sớm xây dựng một khung khổ quản lý dưới hình thức Nghị định quy định về cơ chế thử nghiệm đối với hoạt động Fintech nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nhân danh Fintech, bảo vệ lợi ích của người sử dụng dịch vụ. Đồng thời, quá trình vận hành khung khổ này cung cấp cơ sở thực tiễn để các cơ quan quản lý nhà nước liên quan sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành, hoàn thiện khung khổ pháp lý, ban hành quy định quản lý theo hướng tạo thuận lợi, thích ứng đối với hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng trong thời gian tới.