Cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẵn sàng mọi điều kiện để chuyển mình

Hiện một số trường nghề đã chủ động triển khai nhiều hoạt động nhằm sẵn sàng thích nghi, phát huy lợi thế trong bối cảnh GDNN chuyển về Bộ GDĐT quản lý.

Trước thềm lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, bao gồm Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp; 13 trường cao đẳng và 3 trường đại học sư phạm sẽ chuyển giao về Bộ Giáo dục và Đào tạo để thực hiện chức năng quản lý và chỉ đạo điều hành theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã nghiên cứu, chuẩn bị sẵn sàng cho quá trình chuyển giao này.

Sẵn sàng trước những thay đổi và thách thức mới

Bày tỏ quan điểm về vấn đề trên, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đông – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ (Bắc Ninh) cho hay, việc chuyển lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sang Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý là một dấu mốc quan trọng, mở ra những cơ hội lớn để đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp.

Sự thay đổi này không chỉ nhằm thống nhất hệ thống giáo dục quốc gia, mà còn tạo điều kiện để giáo dục nghề nghiệp tiếp cận tốt hơn với các chính sách đồng bộ, từ quản lý, hạ tầng, đến phát triển nguồn nhân lực.

 Ảnh minh họa. Nguồn: Website Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ.

Ảnh minh họa. Nguồn: Website Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ.

Trong bối cảnh đất nước đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển và thu nhập cao vào năm 2045, giáo dục nghề nghiệp cần được xem là một trong những trụ cột để thực hiện ba chiến lược đột phá của quốc gia: thể chế, hạ tầng và con người. Sự chuẩn bị kỹ lưỡng về các yếu tố này không chỉ giúp hệ thống giáo dục nghề nghiệp đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động hiện tại, mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự hội nhập quốc tế trong tương lai. Cụ thể, việc chuyển giao này mang lại nhiều thuận lợi rõ rệt.

Thứ nhất là, tối ưu hóa quản lý dữ liệu. Hệ thống dữ liệu tuyển sinh chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo giúp mở rộng khả năng tiếp cận thí sinh, tối ưu hóa quy trình tuyển sinh và tăng cường tính minh bạch, công bằng. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hình ảnh của giáo dục nghề nghiệp.

Thứ hai là, thống nhất lộ trình học tập. Sự kết nối giữa các bậc học từ phổ thông đến cao đẳng, đại học trong cùng một hệ thống sẽ giúp học sinh có lộ trình học tập liền mạch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên thông và phát triển năng lực toàn diện.

Thứ ba là, nâng cao nhận thức về vai trò, sứ mệnh của giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi cấp học trong hệ thống giáo dục đóng vai trò là một mắt xích quan trọng để phát triển toàn diện năng lực của học sinh.

Giai đoạn từ mầm non đến trung học cơ sở đặt nền tảng về đạo đức, kỹ năng sống, và tri thức cơ bản. Lên đến bậc trung học phổ thông, học sinh bắt đầu hình thành tư duy logic, tư duy sáng tạo và năng lực tự học. Đến bậc cao đẳng, các em được trang bị kỹ năng nghề nghiệp thực tiễn, giúp dễ dàng tham gia vào thị trường lao động. Liên thông lên đại học, học sinh tiếp tục hoàn thiện tư duy hệ thống, năng lực nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.

Có thể thấy, sự đồng bộ này sẽ đảm bảo cho người học có thể phát triển toàn diện, từ học tập đến làm việc, đóng góp hiệu quả vào mục tiêu phát triển quốc gia tới năm 2045.

Thầy Đông thông tin, hiện nhà trường đã chủ động triển khai nhiều hoạt động nhằm sẵn sàng thích nghi và phát huy lợi thế trong bối cảnh giáo dục nghề nghiệp chuyển về Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý.

Cụ thể, Nhà trường đã tiến hành rà soát toàn diện các yếu tố đảm bảo chất lượng của cơ sở giáo dục, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Đồng thời, sẵn sàng đồng bộ phương thức và hệ thống quản lý chất lượng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng các yêu cầu liên quan đến quản lý chương trình đào tạo, đánh giá và kiểm định chất lượng.

Bên cạnh đó, nhà trường đã tiến hành rà soát hệ thống thông tin và dữ liệu. Trường đã chủ động nâng cấp và chuẩn hóa hệ thống dữ liệu của mình để tích hợp vào hệ thống dữ liệu tuyển sinh chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Điều này không chỉ giúp đồng bộ quy trình quản lý mà còn nâng cao khả năng tiếp cận và thu hút thí sinh, tạo lợi thế cạnh tranh trong công tác tuyển sinh.

Ngoài ra, giúp tăng cường kết nối và chia sẻ nguồn lực. Nhà trường cam kết chia sẻ các nguồn lực sẵn có như cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo và mạng lưới doanh nghiệp đối tác. Việc chia sẻ này nhằm tăng cường hợp tác và gắn kết với các cơ quan quản lý giáo dục tại địa phương như Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo và các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở để đẩy mạnh công tác trải nghiệm và định hướng nghề nghiệp cho học sinh, đồng thời hỗ trợ giáo viên trong các chương trình giáo dục thực tiễn.

Đây cũng là cơ hội giúp nhà trường chuẩn hóa và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, giảng viên. Theo đó, Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ đã đặc biệt chú trọng đến việc chuẩn hóa năng lực đội ngũ thông qua các chương trình bồi dưỡng chuyên môn và kỹ năng giảng dạy. Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của giáo dục nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng, đảm bảo đội ngũ cán bộ, giảng viên luôn sẵn sàng trước những thay đổi và thách thức mới.

Với những bước chuẩn bị kỹ lưỡng trên, nhà trường không chỉ sẵn sàng hòa nhập vào hệ thống giáo dục quốc gia mà còn kỳ vọng đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp trong giai đoạn chuyển giao quản lý.

Cùng đồng tình với quan điểm trên, Thạc sỹ Trần Phương – Hiệu trưởng Trường Trung cấp Việt Giao cho rằng, việc quản lý tập trung ở một đầu mối là Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc liên thông các cấp học, giúp học sinh dễ dàng chuyển tiếp từ trung cấp lên cao đẳng, đại học.

Một đầu mối quản lý sẽ giúp giảm thiểu rườm rà trong thủ tục hành chính, tạo sự đồng bộ trong các quy định và chính sách.

Đồng thời, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ có cơ hội hợp tác chặt chẽ hơn với các trường đại học, tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng đào tạo và là nguồn tuyển sinh của các trường Đại học. Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý nhà nước cũng sẽ giúp nâng cao uy tín cho nhà trường, từ đó dễ dàng kêu gọi đầu tư, thu hút nhiều học sinh hơn.

Tuy nhiên, giáo dục nghề nghiệp có những đặc thù khác so với giáo dục phổ thông, đòi hỏi những chính sách và cơ chế quản lý riêng. Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể sẽ phải đối mặt với áp lực lớn ban đầu về nguồn lực để quản lý thêm một hệ thống giáo dục lớn. Bên cạnh đó phải xây dựng lại khối lượng văn bản pháp luật để các hệ trung cấp, cao đẳng, đại học cùng phát huy hết lợi thế trong cơ chế đào tạo nghề nghiệp.

Ngoài ra, thầy Phương cho rằng, khi chuyển về Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, Bộ cần xác định lại mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là muốn đào tạo ra những người lao động có kỹ năng thực hành cao, đáp ứng ngay nhu cầu của doanh nghiệp, hay muốn đào tạo ra những người có kiến thức nền tảng vững chắc, có khả năng thích ứng với nhiều công việc khác nhau. Muốn tạo ra một hệ thống giáo dục nghề nghiệp độc lập, hay muốn liên kết chặt chẽ với hệ thống giáo dục đại học để tạo điều kiện cho người học có thể chuyển tiếp giữa các cấp học?

Cùng bàn về vấn đề trên, Nhà giáo Ưu tú, Tiến sĩ Phạm Xuân Khánh – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội bày tỏ, trong quá trình chuyển giao cơ quan quản lý nhà nước, tất yếu sẽ có sự ảnh hưởng, thay đổi nhất định về các văn bản, hồ sơ, thủ tục, triển khai các nhiệm vụ, …

Chính vì vậy, thầy Khánh mong rằng, quá trình chuyển giao nên được thực hiện nhanh gọn để tránh ảnh hưởng đến hoạt động của nhà trường. Những văn bản quy định thay đổi được đưa ra cần mang tính định hướng, thông thoáng hơn, không được kìm hãm sự phát triển của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Có thể thấy rằng, việc chuyển cơ quan quản lý nhà nước từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sang Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ góp phần giúp sự chỉ đạo được thống nhất, đồng bộ ở tất cả các cấp học. Hơn nữa, công tác phân luồng học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông, hoạt động giảng dạy văn hóa trung học phổ thông tất yếu cũng sẽ thuận lợi hơn.

Để chuẩn bị cho sự chuyển giao này, hiện nhà trường đang bắt đầu chuyển đổi toàn bộ mô hình đào tạo từ đào tạo theo mô-đun sang đào tạo theo tín chỉ để phù hợp với chương trình đào tạo của bậc đại học. Ngoài ra, nhà trường cũng đang áp dụng chuyển đổi số trong mô hình quản lý toàn trường và sắp tới sẽ tổ chức hoạt động theo mô hình tự chủ. Từ đó, đảm bảo tính liên thông từ cao đẳng lên đại học được thuận lợi hơn.

Cơ hội quan trọng để điều chỉnh Luật Giáo dục nghề nghiệp

Cũng theo Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ, sự chuyển giao này chắc chắn là một cơ hội quan trọng để rà soát và điều chỉnh Luật Giáo dục nghề nghiệp sau 10 năm triển khai.

Thực tế hiện nay, cơ chế quản lý và đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp hiện nay còn phân tán, thiếu sự thống nhất và hiệu quả, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.

Chính vì vậy, việc điều điều chỉnh luật giúp thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục. Chuyển giao toàn bộ chức năng quản lý giáo dục nghề nghiệp về một cơ quan duy nhất để đảm bảo sự đồng bộ và hiệu quả. Hơn nữa, giúp thiết lập các tiêu chuẩn và quy trình đánh giá chất lượng đào tạo, đảm bảo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuân thủ và liên tục cải tiến.

Việc điều chỉnh các yếu tố trên trong Luật Giáo dục nghề nghiệp sẽ tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2045, trở thành quốc gia phát triển và có thu nhập cao.

 Ảnh minh họa. Nguồn: Website Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội.

Ảnh minh họa. Nguồn: Website Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội.

Mặt khác, theo thầy Đông, hệ thống giáo dục nghề nghiệp hiện đã có những thay đổi lớn cả về quy mô lẫn chất lượng, đặc biệt là yêu cầu gắn kết chặt chẽ hơn với thị trường lao động và các doanh nghiệp.

Về quy mô, số lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp (theo thông tin từ Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tính đến năm 2023, cả nước có 2.464 cơ sở dạy nghề, trong đó có 1.520 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (bao gồm 416 trường cao đẳng, 376 trường trung cấp và 728 trung tâm giáo dục nghề nghiệp).

Về nhu cầu nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ, bán dẫn và công nghiệp số tại Việt Nam đang gia tăng mạnh mẽ, phản ánh xu hướng phát triển và hội nhập quốc tế của nền kinh tế. Sự thiếu hụt nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ, bán dẫn và công nghiệp số đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam trong việc duy trì và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Do đó, việc đầu tư vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực này là cấp thiết để đáp ứng nhu cầu thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việc cập nhật luật sẽ đảm bảo phù hợp với bối cảnh mới đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và tay nghề cao trong các lĩnh vực như công nghệ bán dẫn và nền công nghiệp số.

Không những vậy, việc điều chỉnh luật sẽ tạo cơ chế rõ ràng hơn trong việc phối hợp giữa các trường với doanh nghiệp, đặc biệt là mô hình đào tạo theo địa chỉ.

Theo thầy Đông, mặc dù Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 đã đề cập đến việc khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp, thế nhưng, các quy định cụ thể về trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trong việc hợp tác với cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn chưa rõ ràng.

Để khắc phục hạn chế trên, cần điều chỉnh luật theo hướng tạo cơ chế pháp lý rõ ràng. Cụ thể, trong luật cần quy định cụ thể trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình đào tạo, bao gồm việc xây dựng chương trình, tổ chức thực tập, và tuyển dụng. Xây dựng chính sách ưu đãi, chẳng hạn miễn giảm thuế hoặc hỗ trợ tài chính, để khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào mô hình đào tạo theo địa chỉ.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh vai trò của doanh nghiệp trong tuyển sinh. Theo đó, doanh nghiệp cần phối hợp với nhà trường ngay từ giai đoạn tuyển sinh để đảm bảo số lượng và chất lượng đầu vào phù hợp với nhu cầu lao động của ngành.

Đồng thời, phải khuyến khích các mô hình đào tạo kép. Lấy cảm hứng từ mô hình đào tạo kép (dual education) của Đức, trong đó học sinh được học lý thuyết tại trường và thực hành tại doanh nghiệp dưới sự hướng dẫn trực tiếp của các chuyên gia. Nhà nước cần đóng vai trò điều phối giữa nhà trường và doanh nghiệp, đảm bảo sự hợp tác diễn ra chặt chẽ và hiệu quả.

Mặt khác, sau khi sửa đổi, Luật Giáo dục nghề nghiệp có thể bổ sung những quy định liên quan đến đổi mới chương trình đào tạo theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế cũng như lộ trình học tập liên thông từ cao đẳng lên đại học, nhằm khuyến khích học sinh lựa chọn giáo dục nghề nghiệp như một con đường phát triển toàn diện theo hướng "Mở - Linh hoạt -Hiện đại - Bao trùm".

Chương trình đào tạo tại cần cập nhật với các công nghệ và phương pháp mới, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Lộ trình học tập cần được thiết kế mở, cho phép học sinh sau khi tốt nghiệp cao đẳng có thể dễ dàng tiếp tục học lên bậc đại học hoặc các chương trình đào tạo chuyên sâu mà không bị rào cản bởi quy định cứng nhắc.

Đề xuất Luật mới quy định rõ ràng về các điều kiện liên thông, bao gồm công nhận tín chỉ từ các chương trình cao đẳng, đồng thời giảm thiểu các yêu cầu bổ sung không cần thiết. Người học có thể tích lũy tín chỉ trong các mô-đun ngắn hạn hoặc các chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế để nâng cao năng lực mà vẫn được công nhận khi học liên thông.

Các chương trình liên thông cần được xây dựng dựa trên sự đổi mới về công nghệ, tích hợp các kỹ năng số (digital skills) và năng lực giải quyết vấn đề phức tạp để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong kỷ nguyên số.

“Đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp, có một triết lý xuyên suốt của giáo dục mà tôi rất tâm đắc. Đó là “Học để làm" - tức là làm theo vị trí việc làm và học tập suốt đời.

Tôi đặc biệt kỳ vọng rằng việc hệ thống giáo dục nghề nghiệp về do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý cùng với các cấp học khác sẽ là cơ hội để nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, tạo sự liên thông và đồng bộ giữa các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc gia. Điều này sẽ giúp đáp ứng tốt hơn chiến lược đột phá về thể chế, hạ tầng, và con người – trong đó, con người luôn là yếu tố trung tâm.

Với bối cảnh mới, chúng ta sẽ có cơ hội đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp, hiện đại hóa chương trình đào tạo và xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Đây là nền tảng quan trọng để hệ thống giáo dục nghề nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu lao động trong nước mà còn vươn tầm quốc tế, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045”, thầy Đông nhấn mạnh.

Thầy Phương cũng cho rằng, việc chuyển giao quản lý giáo dục nghề nghiệp từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sang Bộ Giáo dục và Đào tạo thực sự là một cơ hội tốt để điều chỉnh Luật Giáo dục nghề nghiệp cho phù hợp hơn sau 10 năm triển khai.

Trong kỷ nguyên số, việc đổi mới và thích ứng là vô cùng quan trọng. Việc áp dụng công nghệ vào giáo dục nghề nghiệp sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người học.

Còn theo thầy Khánh, sự chuyển giao này là thời điểm để điều chỉnh luật giáo dục nghề nghiệp phù hợp với điều kiện mới, tình hình mới. Theo đó, có thể là đưa luật giáo dục nghề nghiệp vào một phần trong luật giáo dục đại học để đảm bảo tính xuyên suốt, hệ thống.

Tường San

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/co-so-giao-duc-nghe-nghiep-san-sang-moi-dieu-kien-de-chuyen-minh-post248855.gd