Cổng làng và ký ức văn hóa người Hà thành: Nơi thời gian dừng lại!

Nằm giữa trung tâm Thủ đô Hà Nội, nơi nhịp sống hiện đại vận hành không ngừng nghỉ cùng sự bùng nổ của công nghệ 4.0, 'phố cổng làng' như Thụy Khuê (Tây Hồ) bỗng trở thành một nốt trầm.

Cổng làng trở thành một phần ký ức của người dân Việt Nam. Ảnh: Báo Hải Dương.

Cổng làng trở thành một phần ký ức của người dân Việt Nam. Ảnh: Báo Hải Dương.

Dẫu vậy, chốn này vẫn thầm lặng kể những câu chuyện cũ, tạo nên bản sắc riêng giữa nhịp sống đương thời.

Biểu tượng văn hóa và lịch sử

Dãy “phố cổng làng” nằm trên tuyến đường Thụy Khuê gồm: Đông Xã, Yên Thái, Hồ Khẩu, Thụy Khuê... Mỗi cổng làng ở đây như một lát cắt lịch sử, gợi nhắc về những làng nghề xưa trứ danh đất Kinh kỳ: Từ nghề làm giấy dó, thuộc da, đến chế tác đồ gỗ tinh xảo.

Ông An, người dân sống cạnh cổng làng Hồ Khẩu đã sống ở đây mấy chục năm, từ hồi nhỏ được cha ông kể lại nhiều về giai thoại. Ông chỉ biết, nó đã có cách đây hàng trăm năm rồi.

“Cổng làng Hồ Khẩu mới sơn lại từ năm 1995, trước đó vẫn giữ nguyên nét cổ kính, rêu phong thời xưa. Đến bây giờ tôi đã 60 tuổi nhưng vẫn không rõ về cốt tích, bởi vì nó đã quá lâu đời. Bao nhiêu năm trôi qua, dân làng cố gắng gìn giữ nét văn hóa đặc trưng của từng làng, từng cổng, từ mái ngói rêu phong đến bậc tam cấp”, ông An chia sẻ.

Một trong những làng cổ nhất nằm trên tuyến phố Thụy Khuê là làng Yên Thái. Nơi đây vẫn giữ nguyên con đường lát gạch đỏ dài khoảng 300m. Đây là chứng nhân lịch sử về nét đặc trưng của văn hóa một thời.

Theo lời kể của người dân Yên Thái, tuyến đường lát gạch đỏ tuy nhiều lần được trùng tu, sửa chữa nhưng lãnh đạo các cấp chính quyền cùng toàn thể người dân vẫn góp ý quyết định giữ nguyên bản vốn có.

Bà Bùi Hạnh Lê, một cư dân cao niên, chia sẻ: “Tôi đã sống ở đây suốt 75 năm, gắn bó gần như cả đời với mảnh đất này. Trong số những cổng làng còn sót lại dọc tuyến phố, cổng làng Yên Thái là nơi tôi nhớ nhất. Nó nổi tiếng không chỉ vì vẻ cổ kính, mái ngói phủ rêu vẫn là loại ngói ngày xưa chưa từng thay mới, mà còn bởi làng Yên Thái vốn xưa là đất nghề - nơi làm giấy dó nổi tiếng cả một vùng”.

“Phải thừa nhận rằng từ xưa đến nay, phố xá Hà Nội vẫn luôn tấp nập, ồn ã tiếng còi xe. Thế nhưng, chỉ cần bước qua cánh cổng làng Yên Thái, người ta như được tách khỏi guồng quay hối hả ngoài kia. Không gian bên trong làng như trầm lại, cuộc sống chậm hơn vài nhịp - nhẹ nhàng, thanh thản dưới bóng đa, mái đình”, bà Hạnh Lê chia sẻ thêm.

Theo như lời các bậc cao niên sống ở con phố Thụy Khuê, trước đây tất cả các cổng làng đều có cánh. Cánh cổng được mở ra vào những buổi sáng sớm, đánh dấu sự bắt đầu của một ngày mới, và đóng lại khi trời đã tối. Về sau, chúng được bỏ đi để tiện cho việc đi lại. Phía dưới là những bức tượng đỡ chân cánh cửa được tạc theo lối cổ xưa.

Không chỉ có Thụy Khuê, ở Hà Nội vẫn còn không ít con phố mà dấu tích làng quê xưa hiển hiện qua những cánh cổng làng cổ kính, vừa như một biểu tượng lặng lẽ giữa phố phường hiện đại, vừa như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng về cội nguồn sâu xa của vùng đất nghìn năm văn hiến.

Trên phố Nguyên Hồng (Đống Đa) - vốn là đất làng Thành Công xưa - vẫn còn một cổng làng nhỏ nép mình sau khu tập thể, nhuốm màu thời gian, gợi nhớ không khí yên ả của làng xóm cũ.

Hay trên phố Bưởi, đoạn giáp ranh giữa quận Tây Hồ và Cầu Giấy, một vài cổng làng như Nghĩa Đô vẫn được phục dựng và bảo tồn, như nỗ lực níu giữ chút hồn xưa giữa nhịp sống đô thị hóa.

Ra xa hơn khỏi nội đô, những ngôi làng cổ như Cự Đà (huyện Thanh Oai) hay Đường Lâm (thị xã Sơn Tây) lại trở thành những “bảo tàng sống” hiếm hoi lưu giữ gần như nguyên vẹn kiến trúc làng quê Bắc Bộ, trong đó cổng làng là điểm nhấn đặc biệt.

Cổng làng Cự Đà với mái ngói rêu phong, đường nét uốn lượn mềm mại như nét cọ cổ xưa; còn cổng làng Mông Phụ ở Đường Lâm, xây bằng đá ong, được xem là một trong những cổng làng cổ nhất Hà Nội, vẫn giữ được gần như nguyên trạng.

Về mặt kiến trúc, mỗi cổng làng mang trong mình những nét đặc trưng riêng biệt, phản ánh sự sáng tạo và tài hoa của người xưa. Từ những vật liệu truyền thống như đá ong, gạch cổ, gỗ lim đến những hoa văn chạm khắc tinh xảo, tất cả đều thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố thẩm mỹ và công năng sử dụng. Không gian xung quanh cổng làng thường được bố trí cây đa, giếng nước, sân đình, tạo nên một tổng thể kiến trúc đậm chất làng quê.

Ngoài ra, cổng làng còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và tâm linh của cộng đồng. Đây là nơi diễn ra các hoạt động cộng đồng như lễ hội, họp làng, đón tiếp khách quý, và cũng là nơi thể hiện sự tôn kính đối với tổ tiên, thần linh.

Những câu đối, hoành phi được khắc trên cổng làng không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật mà còn chứa đựng những triết lý sống, đạo đức và truyền thống tốt đẹp của người Việt.

 Làng Cự Đà mang vẻ đẹp cổ kính, thanh bình. Ảnh: ITN.

Làng Cự Đà mang vẻ đẹp cổ kính, thanh bình. Ảnh: ITN.

Giữ gìn hồn cốt làng xưa

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện đại hóa và đô thị hóa mạnh mẽ, nhiều cổng làng đang đối mặt với nguy cơ xuống cấp, biến dạng hoặc thậm chí bị phá bỏ. Áp lực từ việc mở rộng hạ tầng giao thông, xây dựng các công trình mới đã khiến không ít cổng làng bị lấn át hoặc xóa sổ.

Theo báo cáo từ Tạp chí Kiến trúc, nhiều cổng làng tại Hà Nội tồn tại trên 100 năm, trở thành di sản văn hóa cần được bảo tồn. Tuy nhiên, do thiếu quy định chặt chẽ và sự quan tâm đúng mức, việc xây dựng và tu bổ cổng làng thường mang tính tự phát, dẫn đến tình trạng phô trương hóa hoặc biến đổi quá mức, làm mất đi nét đặc trưng và hồn cốt vốn có.

Chia sẻ trên báo Đại Đoàn Kết, TS Nguyễn Thị Thanh Mai - Khoa Công nghiệp văn hóa và Di sản, Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, nhiều thôn làng đã chủ động kêu gọi người dân và những người con xa quê đóng góp kinh phí để trùng tu, tôn tạo, xây dựng lại cổng làng, nhằm giữ gìn nét đẹp truyền thống đồng thời tạo diện mạo khang trang hơn cho làng quê.

Tuy nhiên, quá trình này đã và đang diễn ra theo nhiều chiều hướng khác nhau: Có nơi trùng tu cẩn trọng, giữ nguyên kiến trúc cũ; có nơi mở rộng, xây mới theo kiểu hiện đại, thậm chí làm mất đi giá trị nguyên bản.

Do chưa có quy định chặt chẽ về việc giữ gìn, bảo tồn cổng làng, việc xây dựng thường mang tính tự phát, dẫn đến tình trạng phô trương hóa hoặc biến đổi quá mức, làm mất đi nét đặc trưng và hồn cốt vốn có của cổng làng.

 Cổng Giếng, cổng Hầu, cổng Chùa, cổng Đông, cổng Cái, cổng Xanh - những tên gọi khác nhau nhưng thân thuộc, dân dã đã gắn bó nhiều năm với người dân Thụy Khuê. Ảnh: Hà Trang.

Cổng Giếng, cổng Hầu, cổng Chùa, cổng Đông, cổng Cái, cổng Xanh - những tên gọi khác nhau nhưng thân thuộc, dân dã đã gắn bó nhiều năm với người dân Thụy Khuê. Ảnh: Hà Trang.

 Hiện tại lối đi vào làng Yên Thái vẫn giữ được vẻ cổ kính với đường lát gạch đỏ xếp theo kiểu lá dừa. Ảnh: Dân Việt.

Hiện tại lối đi vào làng Yên Thái vẫn giữ được vẻ cổ kính với đường lát gạch đỏ xếp theo kiểu lá dừa. Ảnh: Dân Việt.

Một vấn đề khác là sự thiếu hụt kinh phí và chuyên gia trong lĩnh vực bảo tồn di sản. Việc tu bổ cổng làng đòi hỏi sự am hiểu sâu sắc về kiến trúc truyền thống, vật liệu xây dựng và kỹ thuật thi công. Tuy nhiên, không phải địa phương nào cũng có đủ nguồn lực và nhân lực để thực hiện công việc này một cách nghiêm cẩn và hiệu quả.

Để bảo tồn và phát huy giá trị của cổng làng giữa bối cảnh đô thị hóa mạnh mẽ, cần một chiến lược tổng thể với sự tham gia đồng bộ từ các cấp quản lý, chuyên gia và cộng đồng dân cư địa phương.

Trước hết, nâng cao nhận thức cộng đồng là yếu tố tiên quyết. Khi người dân hiểu rõ giá trị văn hóa - lịch sử của cổng làng, họ sẽ chủ động gìn giữ, bảo vệ như một phần máu thịt của quê hương mình. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục di sản cần được tổ chức thường xuyên, gắn với các chương trình văn hóa cộng đồng.

Tiếp đó, hoàn thiện khung pháp lý và chính sách hỗ trợ là nền tảng để bảo tồn lâu dài. Việc ban hành quy định rõ ràng về bảo vệ cổng làng, phân loại các công trình có giá trị và hỗ trợ kinh phí cho địa phương tu bổ, tôn tạo là rất cần thiết. Đây cũng là điều kiện để kiểm soát tốt các hoạt động xây dựng mới, tránh xâm hại cảnh quan làng cổ.

Một bước quan trọng không thể thiếu là kiểm kê và lập hồ sơ khoa học cho từng cổng làng, đánh giá hiện trạng và giá trị kiến trúc - lịch sử. Đây sẽ là cơ sở để xác định phương án can thiệp phù hợp, cũng như đề xuất công nhận di tích nếu đủ điều kiện.

Về kỹ thuật, việc tu bổ phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc bảo tồn yếu tố gốc: Giữ nguyên vật liệu truyền thống như đá ong, gạch cổ, mái ngói ta; không sơn sửa lòe loẹt hoặc làm mới theo lối hiện đại. Các chuyên gia bảo tồn, kiến trúc sư, nghệ nhân làng nghề cần được mời tham gia trực tiếp vào quy trình phục dựng.

Song song, huy động nguồn lực xã hội hóa cũng là hướng đi bền vững. Nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân yêu di sản sẵn sàng đồng hành nếu có cơ chế rõ ràng và minh bạch. Cộng đồng cư dân địa phương, với vai trò là người thụ hưởng di sản, cũng cần trở thành lực lượng giám sát và tham gia vào quá trình bảo tồn.

Cuối cùng, có thể kết hợp bảo tồn với phát triển du lịch cộng đồng. Những cánh cổng làng cổ kính có thể trở thành điểm nhấn trong các tuyến du lịch làng nghề, làng cổ nếu được giới thiệu đúng cách. Đây không chỉ là cách “kích hoạt” di sản mà còn tạo sinh kế mới cho người dân, biến di sản sống thành nguồn lực phát triển bền vững.

Hà Trang

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/cong-lang-va-ky-uc-van-hoa-nguoi-ha-thanh-noi-thoi-gian-dung-lai-post737410.html