Cú bắt tay chiến lược giữa hợp tác xã với doanh nghiệp để 'cùng thắng'
Khi tăng trưởng kinh tế không còn dựa vào sản lượng mà dựa vào chất lượng và giá trị gia tăng, mối liên kết giữa hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp đang trở thành một trong những cấu phần quan trọng nhất để nâng cao năng suất, mở rộng thị trường và đảm bảo phát triển bền vững.
Hàng loạt mô hình thực tế cho thấy, chỉ khi HTX và doanh nghiệp cùng tham gia sâu vào chuỗi giá trị, nông dân mới thoát cảnh “được mùa mất giá”, doanh nghiệp mới có vùng nguyên liệu chuẩn hóa, và địa phương mới có sức bật phát triển bền vững.
Từ hợp đồng kinh tế đến động lực chuyển đổi mô hình
Thực tế từ các địa phương cho thấy tính hiệu quả rõ rệt. Ở Long An trước sáp nhập, 22 mô hình liên kết trong lĩnh vực rau màu và trái cây đã giúp ổn định hơn 2.000 ha vùng trồng, giảm chi phí 10-15% và tăng thu nhập thành viên lên 20-30%. Ở Tây Ninh, 100% dự án liên kết được phê duyệt đều được giải ngân hỗ trợ, tạo điều kiện để các HTX đầu tư kho lạnh, thiết bị bảo quản và kiểm soát chất lượng, nền tảng để hình thành chuỗi sắn, đường, cao su và chế biến sâu có sức cạnh tranh cao.

Tham gia chuỗi liên kết buộc HTX phải thay đổi, áp dụng truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn hóa quy trình.
Tại Quảng Trị, HTX Tuấn Linh trở thành một ví dụ tiêu biểu khi liên kết với doanh nghiệp chế biến tinh bột sắn và sản phẩm gỗ rừng trồng, qua đó nâng giá trị sản phẩm thay vì chỉ bán nguyên liệu thô. Mô hình cho thấy lợi ích “hai chiều”: HTX áp dụng quy trình sản xuất đạt chuẩn, còn doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu ổn định và đồng nhất chất lượng.
An Giang lại nổi lên với mô hình liên kết trong chuỗi lúa gạo công nghệ cao. Doanh nghiệp ứng vốn và bao tiêu theo giá thị trường cộng biên độ, còn HTX tổ chức sản xuất theo quy chuẩn, sử dụng cơ giới hóa đồng bộ và chuyển đổi số trong quản lý vùng trồng. Kết quả là năng suất lúa tăng 10-15%, tỷ lệ gạo đạt chuẩn xuất khẩu sang các thị trường khó tính tăng mạnh, đặc biệt là EU và Nhật Bản.
Liên kết HTX và doanh nghiệp không chỉ là cam kết tiêu thụ, mà là quá trình tái cấu trúc sản xuất theo yêu cầu thị trường. Tham gia chuỗi liên kết buộc HTX phải thay đổi, áp dụng nhật ký điện tử, truy xuất nguồn gốc QR, minh bạch tài chính, tiêu chuẩn hóa quy trình. Đây chính là những điều kiện cần để HTX tiếp cận doanh nghiệp lớn và tham gia vào chuỗi giá trị quốc gia, thậm chí chuỗi cung ứng toàn cầu.
Doanh nghiệp cũng hưởng lợi. Việc làm việc trực tiếp với HTX giúp doanh nghiệp giảm chi phí thu mua, chủ động nguồn nguyên liệu và kiểm soát chất lượng ở mức cao. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đứt gãy chuỗi cung ứng và biến động giá cả, sự ổn định này là yếu tố sống còn.
Nhiều mô hình tiêu biểu đã chứng minh điều đó. Ở Gia Lai, HTX Phước Hưng liên kết với doanh nghiệp chế biến cà phê, hồ tiêu, đưa sản phẩm đạt chứng nhận quốc tế và bước vào phân khúc chất lượng cao. Ở Vĩnh Long, HTX Rạch Lọp liên kết tiêu thụ trái cây, giúp giải quyết triệt để tình trạng dư thừa theo mùa vụ. Ở Tây Ninh, HTX Minh Trung liên kết dài hạn với doanh nghiệp để hiện đại hóa sản xuất và tăng thu nhập thành viên.
Một ví dụ điển hình khác là mô hình hợp tác giữa Tập đoàn TH và nhiều HTX chăn nuôi. Doanh nghiệp cung cấp vốn, công nghệ, tiêu chuẩn; HTX cung cấp vùng nguyên liệu; cả hai hình thành chuỗi giá trị khép kín, chất lượng cao.
Doanh nghiệp dẫn dắt, HTX nâng năng lực, địa phương hưởng lợi
Các báo cáo của Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cùng số liệu của Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể cho thấy mô hình HTX và doanh nghiệp chính là động lực để hình thành các chuỗi giá trị hiện đại, tăng sức cạnh tranh nông sản và hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết 68-NQ/TW.
Các cơ quan quản lý nhà nước ghi nhận một loạt tín hiệu tích cực. Tỷ lệ hộ nông dân tham gia sản xuất theo chuỗi tăng, mô hình liên kết được phê duyệt nhiều hơn và ngân sách hỗ trợ giải ngân tốt. Điều này cho thấy khung chính sách liên kết đang phát huy hiệu quả rõ rệt và cần tiếp tục mở rộng.
Các chuyên gia nhấn mạnh hiệu quả liên kết phụ thuộc vào 3 yếu tố: thông tin thị trường minh bạch, hợp đồng chặt chẽ và cơ chế hỗ trợ của chính quyền. Khi cả ba điều kiện được bảo đảm, liên kết không chỉ nâng hiệu quả kinh tế mà còn tạo nền tảng xã hội vững chắc vì nông dân yên tâm đầu tư, doanh nghiệp tự tin mở rộng chuỗi và địa phương có thể phát triển vùng nguyên liệu bền vững.
Song song với thực tiễn, chính sách hỗ trợ đã được triển khai đồng bộ. Bộ Tài chính khuyến khích doanh nghiệp nhà nước ưu tiên mua sản phẩm từ HTX; Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu gói tín dụng riêng cho chuỗi liên kết; Bộ Nông nghiệp và môi trường đề xuất ưu đãi thuế đất, thuế thu nhập và hỗ trợ chứng nhận tiêu chuẩn. Các doanh nghiệp công nghệ cũng tham gia với vai trò cung cấp nền tảng số hóa, truy xuất nguồn gốc, giám sát chất lượng, yếu tố bắt buộc trong xuất khẩu nông sản hiện nay.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp công nghệ đang tham gia sâu với các giải pháp số hóa giúp truy xuất nguồn gốc, giám sát chất lượng và quản trị vùng trồng theo thời gian thực, những yêu cầu bắt buộc cho xuất khẩu hiện đại.
Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng xác định “HTX - doanh nghiệp - Nhà nước” là trục chính của mô hình kinh tế hợp tác. Đây là bước chuyển quan trọng: HTX không còn đóng vai trò đơn lẻ, doanh nghiệp không chỉ là đầu ra, và Nhà nước không chỉ hỗ trợ mà định hướng theo chuỗi giá trị.
Nhìn từ Long An trước sáp nhập, Tây Ninh, An Giang, Gia Lai đến Quảng Trị, mô hình liên kết hiệu quả đang giúp nông dân tăng thu nhập 20-40%, HTX phát triển bền vững, doanh nghiệp ổn định nguồn cung và chính quyền địa phương nâng được giá trị kinh tế nông thôn. Mối liên kết này cũng mở cánh cửa lớn hơn cho nông sản Việt bước vào các thị trường cao cấp, nơi minh bạch nguồn gốc và tiêu chuẩn chất lượng trở thành yêu cầu bắt buộc.
Liên kết HTX và doanh nghiệp không chỉ là hợp tác sản xuất; đó là mô hình phát triển mới đang giúp nông nghiệp Việt Nam chuyển từ “sản lượng” sang “giá trị”. Khi HTX được nâng cao năng lực tổ chức, doanh nghiệp có vùng nguyên liệu chuẩn hóa, và Nhà nước tạo khung chính sách thuận lợi, một hệ sinh thái nông nghiệp hiện đại, bền vững và có khả năng cạnh tranh quốc tế sẽ hình thành. Đây chính là con đường để nông sản Việt không chỉ đứng vững trong nước mà còn vươn xa trên thị trường toàn cầu.
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA):
Kiến nghị Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi đồng bộ cho cả HTX và doanh nghiệp khi tham gia mô hình liên kết bền vững. Cụ thể, cần có gói tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp, thời hạn vay dài; xây dựng chính sách bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm rủi ro thị trường; cung cấp cơ chế bảo lãnh tín dụng cho HTX khi ký kết hợp đồng lớn; ưu tiên bố trí quỹ đất, hạ tầng sản xuất và áp dụng miễn, giảm hoặc hoàn thuế đối với hoạt động góp vốn, đầu tư trong chuỗi giá trị.
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI):
Kiến nghị Chính phủ giao nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể cho chính quyền các địa phương trong việc quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, gắn với việc kêu gọi các doanh nghiệp “đầu tàu” làm hạt nhân xây dựng chuỗi giá trị. Kết quả thúc đẩy liên kết doanh nghiệp-HTX cần được xem là một trong những tiêu chí để đánh giá năng lực điều hành kinh tế của địa phương.
Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME):
Kiến nghị Chính phủ giao nhiệm vụ cho VINASME và Liên minh HTX Việt Nam chủ trì hoặc đồng chủ trì các chương trình, dự án quốc gia về phát triển chuỗi giá trị, chuyển đổi số nông nghiệp, xúc tiến thương mại quốc tế, hoặc phát triển thương hiệu. Giúp các tổ chức này có tiếng nói và ảnh hưởng lớn hơn, huy động được nguồn lực lớn hơn để phục vụ hội viên, đồng thời đảm bảo tính đồng bộ trong triển khai chính sách.












