Để giữ vai trò đầu tàu, TP.HCM phải bước ra khỏi những ràng buộc cũ
Sau hơn hai năm triển khai, Nghị quyết 98 chưa tạo chuyển biến đáng kể trong việc tháo gỡ các điểm nghẽn phát triển TP.HCM. Theo TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên nhân do nghị quyết này thiết kế trong khuôn khổ tư duy và pháp luật hiện hành đã lỗi thời.
LTS: Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa cho ý kiến và thống nhất trình Quốc hội thông qua dự án nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều nghị quyết số 98 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV.
Mục tiêu nghị quyết nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, đảm bảo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, khả thi, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu cấp thiết trong thu hút nhà đầu tư chiến lược, huy động nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển TP.HCM sau hợp nhất.
Tuần Việt Nam trao đổi với TS. Nguyễn Đình Cung xung quanh nội dung này.
Cần một sandbox thể chế thực sự
Sau hơn hai năm triển khai, vì sao Nghị quyết 98 vẫn chưa tạo ra được kết quả đáng kể trong việc gỡ các điểm nghẽn của TP. Hồ Chí Minh, thưa ông?
TS. Nguyễn Đình Cung: Nghị quyết 98, sau hơn hai năm thực hiện, vẫn chưa tạo ra thành quả rõ rệt trong việc giải quyết các tắc nghẽn và các vấn đề phát triển của TP.HCM.
Có nhiều lý do, nhưng trước hết là do Nghị quyết 98 (và hiện nay đang được sửa đổi) được thiết kế trên một hệ tư duy và trong khuôn khổ pháp luật hiện hành vốn không còn phù hợp. TP.HCM chỉ xin cách làm khác ở một số việc, nhưng việc thực hiện những nội dung đó lại phải theo đúng pháp luật hiện hành.
Vì vậy, khả năng thực thi các nội dung được phép làm khác phụ thuộc hoàn toàn vào việc sửa đổi hoặc hướng dẫn thực hiện pháp luật liên quan của các cơ quan trung ương. Những ưu đãi được gọi là “vượt trội” cũng chỉ nằm trong khung khổ pháp luật hiện hành, chưa thực sự vượt trội.
Bên cạnh đó, thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và ở TP.HCM nói riêng – có xu hướng lựa chọn cách làm việc thiên về an toàn hơn là dám đổi mới, sáng tạo trong thực thi chính sách, kể cả đối với những nội dung thuộc cơ chế đặc thù vì mục tiêu phát triển chung.

TS Nguyễn Đình Cung: Chính quyền và đội ngũ lãnh đạo TP.HCM hiện nay đang cảm nhận rất rõ áp lực chuyển đổi từ bên trong ngày càng lớn, mạnh và cấp bách.
Nếu tiếp tục cách làm như hiện nay, thì dù có liên tục ban hành cơ chế đặc thù, TP.HCM cũng khó có thể tái cơ cấu, nâng cấp trình độ phát triển, hay chuyển sang mô hình tăng trưởng mới dựa trên năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Vì vậy, TP.HCM cần một sandbox thử nghiệm thể chế thực sự – một không gian để học hỏi và thử nghiệm thể chế mới, chứ không phải tiếp tục đi xin cơ chế riêng biệt. Một nghị quyết mới về sandbox thể chế thay thế Nghị quyết 98, trước hết, phải là văn bản pháp lý cho phép TP.HCM được thử nghiệm các mô hình thể chế mới.
Ông hình dung như thế nào về sandbox thử nghiệm thể chế cho TP.HCM?
Theo tôi, TP.HCM cần có một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, phải xác định rõ những lĩnh vực được phép thử nghiệm, và các lĩnh vực này phải bám sát các vấn đề phát triển căn bản cùng định hướng chiến lược của TP.HCM; đây chính là giới hạn phạm vi thử nghiệm.
Thứ hai, cần xác định các kết quả dự kiến tương ứng với từng lĩnh vực thử nghiệm, bao gồm kết quả ngắn hạn trong 2–3 năm, trung hạn trong 5–7 năm và dài hạn trong 7–10 năm.
Thứ ba, cho phép Đảng bộ và chính quyền TP.HCM toàn quyền quy định và quyết định cách làm, công cụ thực hiện và cả bộ máy tổ chức thực thi.
Thành phố được quyền linh hoạt điều chỉnh hoặc thay đổi khi cần thiết nếu nhận thấy cách làm hiện tại chưa đạt mục tiêu; nghĩa là phương thức triển khai phải có tính linh hoạt cao để hướng tới kết quả cuối cùng.
Thứ tư, phải xác định rõ các rủi ro tiềm ẩn, đồng thời quy định cơ chế và công cụ quản lý rủi ro, cũng như những việc mà chính quyền TP.HCM không được làm trong quá trình thử nghiệm.
Thứ năm, cần có một cơ quan chuyên trách ở trung ương phối hợp với chính quyền TP.HCM và các bên liên quan để thường xuyên theo dõi, định kỳ sáu tháng tiến hành đánh giá; trên cơ sở đó, thành phố thực hiện các điều chỉnh phù hợp. Hằng năm, phải có tổng kết và rút ra các bài học kinh nghiệm về cải cách thể chế.
Tạo dư địa để TP.HCM bứt phá
Vì sao sức mạnh kinh tế của TP.HCM vốn vượt trội so với cả nước lại đang suy giảm, thưa ông?
TP.HCM vẫn có sức mạnh kinh tế vượt trội so với tất cả các địa phương khác, nhưng sức mạnh đó đang liên tục suy giảm; vẫn là đầu tàu của cả nền kinh tế, nhưng “đầu máy” đã lạc hậu về công nghệ và tốc độ đang ngày càng chậm lại.
TP.HCM vẫn “chìm sâu và quá lâu” trong mô hình tăng trưởng theo chiều rộng (đã được khai thác đến hạn); chưa thể bứt phá để chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên nâng cao năng suất, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; là địa phương có nhiều cơ hội đầu tư nhất nhưng không hiện thực hóa được để thúc đẩy phát triển; là địa phương có nguồn lực nhiều nhất nhưng lại không huy động đủ nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển…
Giao thông đô thị, đặc biệt tại khu vực trung tâm TP.HCM đã tắc nghẽn; tình trạng ngập úng do triều cường; ô nhiễm môi trường nước, không khí, rác thải… ngày càng trầm trọng, làm giảm chất lượng sống của người dân và kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội của thành phố.
Nếu không có cải cách mạnh mẽ và những thay đổi mang tính bước ngoặt về cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng, TP.HCM sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh, suy giảm vai trò đầu tàu của nền kinh tế; các lực cản đối với phát triển kinh tế của thành phố sẽ ngày càng nghiêm trọng; môi trường và điều kiện sống của người dân sẽ xấu đi; mức sống của người dân sẽ giảm theo.
Thực trạng này của kinh tế TP.HCM rõ ràng đang ảnh hưởng bất lợi tới quá trình tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng chung của cả nước. Có lẽ, hơn ai hết, chính quyền và đội ngũ lãnh đạo TP.HCM hiện nay đang cảm nhận rất rõ áp lực chuyển đổi từ bên trong ngày càng lớn, mạnh và cấp bách.
Vì sao đây lại là thời điểm tốt nhất để TP.HCM chuyển mình mạnh mẽ, dựa trên những điều kiện thuận lợi cả trong nước lẫn quốc tế?
TP.HCM đang ở thời điểm có lợi thế hội tụ hiếm có. Thành phố sở hữu những nền tảng mà không địa phương nào có được: một trung tâm kinh tế – tài chính với sức tích tụ vốn lớn nhất cả nước, hệ sinh thái doanh nghiệp – đại học – viện nghiên cứu – bệnh viện hàng đầu, cùng môi trường kinh doanh năng động và một cộng đồng đổi mới sáng tạo thuộc loại sôi động nhất Việt Nam.
Đồng thời, thành phố đang mở ra không gian phát triển mới sau hợp nhất với Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu, tạo nên một cấu trúc đô thị – công nghiệp – cảng biển kết nối mật thiết, giúp loại bỏ các rào cản địa giới và mở ra cơ hội phát triển lớn hơn nhiều lần so với hiện nay.
Cùng lúc đó, cả nước đang bước vào giai đoạn cải cách mạnh mẽ với những điều kiện thể chế, cơ chế chính sách và sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương được đánh giá là “tốt nhất trong nhiều năm trở lại đây”. Thời điểm này tạo ra dư địa để TP.HCM khơi thông nguồn lực, bứt phá phát triển và thực sự trở thành đầu tàu kéo cả nền kinh tế đi lên.
Tất cả những yếu tố đó kết hợp lại cho thấy: TP.HCM đang đứng trước cơ hội chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu – dựa trên năng suất, chất lượng, công nghệ và đổi mới sáng tạo – đúng vào thời điểm đất nước có điều kiện thuận lợi chưa từng có.
Huy động nguồn lực lớn
Theo ông, những vấn đề phát triển TP.HCM phải vượt qua là gì?
Tỷ lệ đầu tư trên GRDP của TP.HCM hiện khá thấp và liên tục giảm, từ khoảng 29,5% năm 2019 xuống hơn 24% năm 2023, thấp hơn đáng kể so với mức bình quân toàn quốc khoảng 33–33,5%. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến tăng trưởng GRDP của thành phố suy giảm trong cùng giai đoạn.
Để đảo chiều xu hướng này, TP.HCM buộc phải huy động nguồn lực đủ lớn và sử dụng hợp lý, hiệu quả theo cơ chế thị trường, hướng vào những điểm nghẽn then chốt. Trước hết là tình trạng quá tải và tắc nghẽn giao thông đô thị, đòi hỏi thành phố phải đầu tư một hệ thống giao thông hiện đại, xanh và thông minh, đồng thời cải thiện kết nối nội vùng và liên vùng. Ngập úng và ô nhiễm môi trường – từ không khí, nước cho tới rác thải – tiếp tục làm suy giảm chất lượng sống và năng lực cạnh tranh của thành phố, cần được xử lý bằng những giải pháp mạnh và nhất quán.

Một nghị quyết mới về sandbox thể chế thay thế Nghị quyết 98, trước hết, phải là văn bản pháp lý cho phép TP.HCM được thử nghiệm các mô hình thể chế mới. Ảnh: Hoàng Hà
Thành phố cũng phải chuyển đổi hoặc di dời các tài sản đô thị lạc hậu, nhất là các khu công nghiệp, khu chế xuất và các khu vực cảng – cầu cảng không còn phù hợp, để tạo quỹ đất cho công nghiệp công nghệ cao, không gian văn hóa và các trung tâm nghiên cứu – phát triển. Song song đó, cần hình thành các hành lang và vùng kinh tế mới: tài chính – dịch vụ chất lượng cao ở trung tâm thành phố; công nghiệp chế tạo và đổi mới sáng tạo ở khu vực Bình Dương trước đây; và vành đai công nghiệp năng lượng – logistics – cảng biển – du lịch.
Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu cấp bách về một khung chính sách mới, dựa trên tư duy “tạo thị trường đầu tư đô thị”, biến các tài sản hiện hữu thành động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy khu vực tư nhân tái phát triển các khu vực có giá trị thấp.
Đồng thời, thành phố phải kiến tạo một chuỗi giá trị đầu tư liên vùng kết nối TP.HCM – Bình Dương – Bà Rịa – Vũng Tàu, để tối ưu hóa tài nguyên vùng và bảo đảm phát triển bền vững, công bằng xã hội, nơi người dân và doanh nghiệp cùng tham gia và cùng hưởng lợi.
Theo ông, TP.HCM cần tạo lập và thực thi môi trường kinh doanh thuận lợi, thân thiện và đồng hành cùng phát triển như thế nào?
Môi trường kinh doanh thuận lợi, chi phí thấp và cạnh tranh là yếu tố nền tảng, mang tính quyết định đối với khả năng thu hút đầu tư tư nhân.
Ngoài các cấu phần đòi hỏi thời gian và nguồn lực để cải thiện như hệ thống hạ tầng, nguồn nhân lực… thì khung thể chế pháp luật, chính sách minh bạch – ổn định, có tính dự đoán cao, năng lực thực thi hiệu quả, khả năng bảo vệ quyền, lợi ích và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư, cùng các cơ chế khuyến khích và bảo đảm quyền tự do, đổi mới sáng tạo… là những yêu cầu mà chính quyền TP.HCM phải đáp ứng.
Cho đến nay, hệ thống pháp luật của Trung ương tạo nên môi trường kinh doanh chung cho cả nước. Tuy nhiên, chính quyền thành phố hoàn toàn có thể đề nghị được thí điểm thực thi pháp luật và chính sách theo tinh thần “nhà nước kiến tạo”, hướng đến mục tiêu – kết quả, không đặt nặng quy trình và thủ tục.
Điều đó có nghĩa là TP.HCM có thể “xin” quyền cắt giảm thủ tục, bãi bỏ các quy trình không cần thiết, rút ngắn tối đa thời gian giải quyết các thủ tục hành chính; xây dựng một đội phản ứng nhanh có đủ năng lực và thẩm quyền để hỗ trợ nhà đầu tư giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh; phát triển các công cụ huy động vốn và các mô hình kinh doanh mới; cùng với đó là cam kết chính trị và thái độ làm việc của toàn bộ hệ thống chính trị trong việc đồng hành cùng nhà đầu tư xây dựng, tái thiết và phát triển thành phố.
Thực tiễn 40 năm cải cách kinh tế cho thấy: tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ – dám làm trong thực thi pháp luật và chính sách của chính quyền địa phương, khi phục vụ lợi ích chung, luôn tạo dựng niềm tin mạnh mẽ cho nhà đầu tư; qua đó huy động được các nguồn lực lớn, thúc đẩy sự bứt phá trong phát triển kinh tế địa phương.
Ông gợi ý gì để TP.HCM thu hút các nhà đầu tư chiến lược và lĩnh vực ưu tiên?
Nhà đầu tư chiến lược không chỉ là “nhà đầu tư lớn”, mà còn là nhà đầu tư có khả năng tạo chuyển dịch cơ cấu, lan tỏa công nghệ, vốn và quản trị cho toàn bộ hệ sinh thái kinh tế của TP.HCM. Họ mang đến một nền tảng mới về sản xuất, logistics, nghiên cứu – phát triển, đô thị thông minh… chứ không chỉ một nhà máy; đồng thời thiết lập hoặc kéo theo chuỗi doanh nghiệp vệ tinh, từ đó làm tăng năng lực cạnh tranh của kinh tế địa phương.
Do đó, việc “chọn” nhà đầu tư chiến lược phải dựa trên tiêu chí đóng góp có hệ thống và lâu dài vào cơ cấu lại nền kinh tế, tạo động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy chuyển đổi và hình thành mô hình tăng trưởng mới cho TP.HCM.
Thành phố cũng cần xây dựng và áp dụng bộ tiêu chí có thể định lượng được để lựa chọn nhà đầu tư chiến lược. Các tiêu chí đó có thể bao gồm quy mô đầu tư, năng lực công nghệ, cam kết nghiên cứu – phát triển (R&D), tỷ lệ nội địa hóa hoặc số doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia trong chuỗi giá trị, tác động đối với việc làm, đóng góp ngân sách và chỉ số ESG.
Đồng thời, cần thay đổi cách thức lựa chọn, chuyển từ cơ chế “xin – cho”, chấp thuận sang cơ chế đăng ký – đánh giá – công bố công khai. Ủy ban nhân dân thành phố hoặc Ban Quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp xây dựng Cơ sở dữ liệu nhà đầu tư chiến lược (Strategic Investors Catalogue) để chủ động mời gọi họ tham gia các dự án trọng điểm của thành phố.
Về lĩnh vực (không chỉ ngành nghề) thu hút đầu tư chiến lược, căn cứ vào những nút thắt và điểm nghẽn phát triển mà TP.HCM đang phải giải quyết, thành phố nên xem xét lựa chọn ít nhất năm lĩnh vực ưu là phát triển đô thị – hạ tầng thông minh – logistics liên vùng; Kinh tế số – đổi mới sáng tạo – công nghiệp bán dẫn và AI; Năng lượng sạch – kinh tế xanh – tuần hoàn; Công nghiệp chế biến công nghệ cao, tự động hóa, y sinh học và Du lịch – dịch vụ chất lượng cao – văn hóa sáng tạo.
Theo tính toán của TS. Nguyễn Đình Cung, tăng trưởng GRDP của TP.HCM từ năm 2011 đến nay có xu hướng giảm. Trung bình giai đoạn 2011–2015 đạt 6,7% (trong khi trung bình cả nước là 5,9%); giai đoạn 2016–2020 giảm xuống còn 5% (trung bình cả nước 6,1%); và trong bốn năm 2021–2024 chỉ đạt 3,85%, thấp hơn khá nhiều so với mức bình quân chung của cả nước (5,66%) và càng cách xa so với mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2021–2025 là 7,5–8%.
Thành phố Hồ Chí Minh (mới) hình thành từ việc hợp nhất TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay, có diện tích 6.772,59 km² và dân số 14.002.598 người. TP.HCM có quy mô kinh tế GRDP năm 2024 khoảng 1.716.581 tỷ đồng (giá so sánh 2010) và 2.715.782 tỷ đồng theo giá hiện hành, tương đương khoảng 108,6 tỷ USD; chiếm 23,6% GDP cả nước và đứng thứ nhất về quy mô kinh tế (tiếp đến là Hà Nội 12,5%; Hải Phòng – hợp nhất – 5,66%; Đồng Nai – hợp nhất – hơn 5,4%).
Thu nhập bình quân đầu người năm 2024 đạt hơn 186 triệu đồng, đứng thứ hai cả nước sau Quảng Ninh và cao hơn mức bình quân chung của cả nước (102,9 triệu đồng).
Các chỉ tiêu khác như thu nội địa 395.000 tỷ đồng, FDI đăng ký 57,6 tỷ USD, doanh thu bán buôn – bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng 924.230 tỷ đồng, số doanh nghiệp trên 1.000 dân là 51, và doanh thu xuất khẩu 42.427 triệu USD đều đứng thứ nhất cả nước.
Riêng tỷ lệ thu nội địa/GRDP 15,8%, TP.HCM đứng thứ ba; Hà Nội đứng thứ nhất với 29,6%, Đà Nẵng đứng thứ hai với 15,9%, trong khi bình quân cả nước là 14,3%.












