Cục trưởng Cục QLCL: Sẽ có nhiều bứt phá về công tác kiểm định trong năm 2025
Năm 2025, Bộ GDĐT tập trung hoàn thiện khung đảm bảo chất lượng bên trong, đảm bảo tính đồng bộ từ chương trình đào tạo, khoa, phòng ban đến ban giám hiệu, HĐT.
LTS: Quyết định số 78/QĐ-TTg ngày 14/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình "Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030" đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc nâng cao hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam.
Sau hơn 3 năm triển khai, chương trình theo Quyết định 78 hiện đã bước vào giai đoạn cuối của giai đoạn 1 (2022-2025), với nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Nhân dịp đầu Xuân Ất Tỵ, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi cùng Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Chương – Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo) để lắng nghe những chia sẻ tâm huyết về bức tranh bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 1 (2022-2025) và gửi gắm những kỳ vọng trong lộ trình phát triển sắp tới của hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Phóng viên: Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Quyết định 78, Cục trưởng có thể chia sẻ về một số kết quả đạt được đối với các mục tiêu giai đoạn 2022-2025 được đề ra trong Quyết định 78?
Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Chương: Trước hết, Cục Quản lý chất lượng sẽ tham mưu cho ngành để tiến hành sơ kết việc thực hiện Quyết định số 78 giai đoạn 2022-2025 vào năm 2025. Hiện nay, kế hoạch sơ kết cũng đã được xây dựng. Qua đánh giá sơ bộ, một số chỉ tiêu lớn trong Quyết định 78 yêu cầu đang đạt được kết quả về cơ bản khá tốt và khả quan.
Thứ nhất, về kiểm định chương trình đào tạo, tính đến ngày 31/12/2024, cả nước đã có 2.224/hơn 6000 chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học đạt kiểm định chất lượng giáo dục, đạt tỷ lệ 37,1% - cao hơn chỉ tiêu 35% được đề ra trong Quyết định 78 đến năm 2025. Đáng chú ý, số lượng chương trình đạt kiểm định quốc tế đã đạt hơn 600, đây là một con số khá ấn tượng.
Thứ hai, về kiểm định cơ sở giáo dục đại học, hầu hết các cơ sở đã hoàn thành chu kỳ kiểm định thứ nhất, đã và đang trong giai đoạn kiểm định chu kỳ hai. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường chưa thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, chủ yếu thuộc ba nhóm sau:
Nhóm thứ nhất, là các cơ sở đào tạo thuộc khối ngành nghệ thuật và văn hóa – đây là lĩnh vực có đặc thù riêng về quy mô đào tạo, đội ngũ giảng viên,... Hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo đang nghiên cứu các giải pháp kiểm định phù hợp đối với nhóm ngành này.
Nhóm thứ hai, là các trường mới thành lập, chưa đủ thời gian hoạt động 5 năm để tiến hành kiểm định theo quy định.
Nhóm thứ ba, là các trường có hợp tác và liên kết quốc tế – những đơn vị này đang trong lộ trình xây dựng chiến lược kiểm định chuẩn quốc tế phù hợp với mô hình đào tạo của họ.
Như vậy, ba nhóm đối tượng chưa thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục là do tính đặc thù của lĩnh vực đào tạo, hoặc chưa đủ điều kiện về chu kỳ, hoặc vừa đủ điều kiện kiểm định thì họ đang chuẩn bị kiểm định chuẩn quốc tế để phù hợp với mô hình đào tạo.
Thứ ba, về đội ngũ kiểm định viên, sau nhiều năm không tổ chức thi, từ năm 2023, việc sát hạch kiểm định viên đã được triển khai trở lại. Hiện cả nước có khoảng 600 kiểm định viên, cơ bản đảm bảo đủ số lượng và năng lực để thực hiện kiểm định trên phạm vi toàn quốc và có thể bao quát các lĩnh vực đào tạo, trừ một số ngành, lĩnh vực đặc thù còn khó khăn về kiểm định viên. Đặc biệt, một số kiểm định viên của Việt Nam đã đạt chuẩn kiểm định viên quốc tế theo các tổ chức như AUN-QA, ABET, FIBAA, ASIIN,... Đây là một bước tiến quan trọng nhằm chia sẻ kinh nghiệm và nâng cao dần chất lượng, uy tín của kiểm định trong nước.
Ngoài ra, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đã chủ động và rất tích cực xây dựng kế hoạch thực hiện Quyết định 78 của Thủ tướng. Bên cạnh kế hoạch triển khai Chương trình phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục với giáo dục đại học, cao đẳng sư phạm năm 2024, 2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo được nêu tại Quyết định số 814/QĐ-BGDĐT. Điều này cho thấy tinh thần trách nhiệm và sự chủ động rất cao từ phía các cơ sở đào tạo đại học.
Nêu như vậy để thấy việc triển khai Quyết định 78 đang đạt kết quả tốt và trên đà hoàn thành các mục tiêu đề ra và chuyển dần từ nhận thức đến văn hóa chất lượng và hành động cải tiến liên tục về chất lượng.
Phóng viên: Vậy theo Cục trưởng, kết quả nào là nổi bật nhất? Vì sao?
Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Chương: Nổi bật nhất trong những kết quả đó là hệ thống văn bản chính sách quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo dần được hoàn thiện, được làm mới, rà soát, điều chỉnh kịp thời và hướng đến sẽ phù hợp thông lệ và chuẩn kiểm định quốc tế, bên cạnh các quy định về kiểm định chương trình, cơ sở đào tạo còn bàn hành các quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn kiểm định viên, quy định về kiểm tra, giám sát và đánh giá các trung tâm kiểm định, các trường đang đẩy nhanh tiến độ kiểm định chương trình đào tạo song song với kiểm định cơ sở giáo dục chu kỳ hai.
Đặc biệt, một số cơ sở giáo dục đại học đã hoàn thành 100% cả kiểm định chương trình đào tạo và kiểm định cơ sở giáo dục, nhiều cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo tốt đã đạt chuẩn kiểm định quốc tế với các tổ chức kiểm định rất uy tín thế giới, đội ngũ kiểm định viên ngày được tăng cường và trẻ hóa, đa ngành nghề, nhiều kiểm định viên là Chủ tịch Hội đồng trường, Ban giám hiệu, cán bộ lãnh đạo các trường đại học, một số trung tâm kiểm định đã tăng cường có hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế với các tổ chức kiểm định thế giới uy tín như AUN-QA, ABET, FIBAA,….
Đây là một dấu ấn quan trọng, phản ánh sự thay đổi lớn trong nhận thức về đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời đây cũng là kênh quan trọng về trách nhiệm công khai và giải trình chất lượng trong lộ trình tự chủ đại học, nhất là tự chủ về học thuật.
Phóng viên: Thực tế cho thấy, công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam tuy đã trải qua gần 20 năm nhưng vẫn còn rất mới và thực chất bắt đầu công tác kiểm định và công nhận chỉ hoạt động đúng vai trò chưa được 10 năm từ khi có Luật Giáo dục đại học sửa đổi 2018.
Vậy khi hoàn thành giai đoạn 1, Cục trưởng đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của việc cần tổ chức sơ kết đánh giá nhằm hoàn thiện chính sách và các điều kiện để dần phù hợp với kiểm định chuẩn quốc tế nhưng không xa rời thực tiễn giáo dục đại học Việt Nam từng giai đoạn phát triển?
Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Chương: Chúng ta có thể thấy rõ cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt trong 6-7 năm gần đây sau khi Luật Giáo dục đại học sửa đổi 2018 (Luật 34) ra đời, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đã có sự tăng cường và phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ hơn rất nhiều so với hơn 10 năm trước đó.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi này, trong đó quan trọng nhất là do quy định pháp luật.
Luật 34 đã xác định kiểm định chất lượng giáo dục là một trong những điều kiện quan trọng để cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ (Khoản 2, Điều 32). Đồng thời, kiểm định cũng là cơ sở để các trường được quyền tự chủ trong việc mở ngành (Khoản 3, Điều 33), xác định chỉ tiêu tuyển sinh (Khoản 1, Điều 34, Luật 34; Điều 4, Thông tư 03/2022/TT-BGDĐT) và là cơ sở để các trường được tự xác định mức thu học phí (Khoản 3, Điều 8, Nghị định 81/2021/NĐ-CP).
Và một lợi ích rất quan trọng nữa của kiểm định chất lượng đó là giúp cơ sở giáo dục đại học Việt Nam tự tin, bình đẳng và tăng cường hơn trong hợp tác quốc tế song phương và đa phương, nhất là liên kết trong đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ. Bởi lẽ, muốn hợp tác để đào tạo chương trình liên kết quốc tế thì đương nhiên cơ sở giáo dục, chương trình đào tạo phải đạt kiểm định chất lượng cả 2 bên.
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, quá trình triển khai kiểm định chất lượng giáo dục vẫn còn một số hạn chế, đặc biệt là tính đồng bộ và nhận thức các bên liên quan. Trước đây, chúng ta trải qua các giai đoạn từ nhận thức về kiểm định đến xây dựng văn hóa chất lượng. Hiện nay, văn hóa chất lượng đã trở thành điều hiển nhiên, và yêu cầu đặt ra là phải liên tục cải tiến để nâng cao chất lượng thực sự bên trong mỗi cơ sở giáo dục. Một trong những điều kiện quan trọng để làm được điều này là có sự tư vấn, góp ý và khuyến nghị từ các bên liên quan, trong đó đoàn đánh giá ngoài để kiểm định chất lượng giáo dục là kênh quan trọng, kể cả các trường tốt nhất thế giới cũng cần có kiểm định chất lượng theo chu kỳ để cải tiến liên tục theo sứ mạng, tầm nhìn và mục tiêu.
Tất nhiên kiểm định không phải là yếu tố duy nhất tạo nên sự thay đổi, nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, thiết lập văn hóa chất lượng và thúc đẩy cải tiến liên tục. Đồng thời, kiểm định cũng là cơ chế giúp các cơ sở giáo dục đại học công khai và giải trình với xã hội về chất lượng đào tạo. Hiện nay, các trường, giảng viên, cán bộ đều ý thức chủ động tham gia vào quá trình thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục. Song, vẫn còn một số ý kiến nghi ngại về tính hiệu quả của kiểm định, cho rằng nó gây tốn kém hoặc chưa thực sự mang lại giá trị rõ ràng. Do đó, cần tiếp tục điều chỉnh chính sách và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cũng như nâng cao chất lượng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong các cơ sở đào tạo, các tiêu chí đánh giá chất lượng phải đo lường và định lượng được qua mỗi chu kỳ.
Do đó, năm 2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tập trung hoàn thiện khung đảm bảo chất lượng bên trong, đảm bảo tính đồng bộ từ cấp chương trình đào tạo, khoa, phòng ban đến ban giám hiệu, hội đồng trường. Việc này quan trọng hơn là việc chúng ta chỉ “chăm chăm” tập trung vào viết báo cáo, đủ minh chứng để đánh giá, kiểm định. Thực tế cho thấy, kiểm định bên ngoài có thể diễn ra thời gian ngắn, nhưng nếu hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong không vững chắc thì kiểm định và đánh giá ngoài chưa thể đạt hiệu quả toàn diện như mong muốn cải tiến liên tục.
Do đó, việc sơ kết giai đoạn này sẽ giúp đánh giá các mặt tích cực và hạn chế, từ đó điều chỉnh thể chế, văn bản hướng dẫn cũng như chính sách hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học. Điều này đồng thời cũng phù hợp với lộ trình sửa đổi các luật về giáo dục trong giai đoạn 2025-2027. Theo đó, Luật không quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Nghị định hoặc của Thông tư do đó một số quy định khung trong luật sẽ được điều chỉnh để linh hoạt hơn.
Ví dụ, hiện nay Luật quy định chu kỳ kiểm định chất lượng 5 năm nhưng sắp tới, quy định này có thể sẽ giao cho Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định, có thể linh hoạt thành 5 năm, 7 năm hoặc 9 năm, tùy theo mức độ phát triển và chất lượng của từng cơ sở giáo dục.
Ngoài ra, cũng sẽ thay đổi cách tiếp cận trong kiểm định. Thay vì kiểm định riêng biệt cho từng hình thức đào tạo như chính quy, đào tạo từ xa, vừa học vừa làm thì sắp tới sẽ hướng đến kiểm định một lần cho tất cả các hình thức đào tạo của một chương trình.
Ví dụ, nếu trường A kiểm định chương trình đào tạo ngành Ngôn ngữ Anh thì đoàn đánh giá ngoài phải thực hiện kiểm định tất cả các hình thức đào tạo của ngành này, bao gồm cả đào tạo từ xa, vừa làm vừa học chứ không đánh giá riêng rẽ như hiện nay.
Bên cạnh đó, cũng hướng tới điều chỉnh cách tiếp cận trong các chu kỳ kiểm định. Chu kỳ 1 có thể tập trung vào hướng dẫn, hỗ trợ, nhưng từ chu kỳ 2, 3 trở đi, trọng tâm sẽ chuyển sang đánh giá thực chất về hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ, thay vì chỉ dựa vào hồ sơ, giấy tờ. Tức là đang từ kiểm định dựa trên văn bản quy định, các quy tắc (rules-based) chuyển dần sang kiểm định dựa trên các nguyên tắc (Principles Based).
Ví dụ, trong kiểm định, thay vì chỉ xem xét trường có chiến lược phát triển hay không thì điều quan trọng hơn là đánh giá cách thức thực hiện chiến lược đó, tác động thực tế đến sinh viên và đội ngũ giảng viên ra sao. Tương tự, chuẩn đầu ra không chỉ là việc công bố trên giấy tờ, mà phải đảm bảo rằng sinh viên hiểu rõ và đạt được chuẩn đầu ra đó.
Cách làm này giúp các trường chú trọng tập trung hơn vào nâng cao chất lượng thay vì chỉ chạy theo quy định, “làm đẹp” hồ sơ bên ngoài. Tất nhiên, với cách làm này, yêu cầu chất lượng kiểm định viên ở các chu kỳ sau cũng phải được nâng cao, do đó do ngành phải có trách nhiệm là đào tạo và tập huấn sâu hơn cho kiểm định viên. Vì vậy, thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ chức các hội thảo nhằm nâng cao năng lực kiểm định viên, mời các chuyên gia quốc tế chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ đội ngũ trong nước đạt chuẩn quốc tế. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng kiểm định mà còn giúp thay đổi tư duy của những người thực hiện.
Bên cạnh đó, cũng sẽ làm rõ trách nhiệm của các cơ sở giáo dục. Nhà trường phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của chương trình đào tạo và đội ngũ giảng dạy, còn kiểm định chỉ đánh giá chất lượng theo tiêu chuẩn đã đặt ra, tránh tình trạng hiểu kiểm định là thanh tra, kiểm tra. Do đó, nếu sau này cơ quan chức năng phát hiện chương trình không đáp ứng tiêu chuẩn, có thể xem xét việc hủy chứng nhận kiểm định.
Đồng thời, cần có cơ chế khuyến khích các trường đạt kiểm định chất lượng tốt. Những trường có thành tích xuất sắc có thể được kéo dài chu kỳ kiểm định hơn có thể trên 5 năm nhằm tạo động lực và nêu được các thực hành tốt, điển hình cho cho các cơ sở khác.
Ngoài ra, cần đặt ra một số điều kiện cứng, bắt buộc của bộ tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chương trình đào tạo cũng như cơ sở giáo dục đại học. Một trường đại học hay một chương trình đào tạo cần xác định rõ những yếu tố nào là cốt lõi, mang tính nền tảng, bắt buộc phải đạt được. Những điều kiện này không thể linh động hay nới lỏng, mà phải là tiêu chí bắt buộc. Ví dụ, một chương trình đào tạo không thể chỉ đạt chuẩn một số tiêu chí rồi lấy trung bình cộng để được công nhận, trong khi có những tiêu chí cốt lõi không đáp ứng được. Điều này sẽ dẫn đến khó cải tiến chất lượng đào tạo và làm giảm ý nghĩa của kiểm định chất lượng theo nguyên lý.
Cuối cùng, sẽ hướng tới tăng cường vai trò tự chủ của các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, để họ có những sáng kiến tốt hơn trong việc đưa ra những nhận định, khuyến nghị cho các cơ sở đào tạo nâng cao chất lượng.
Phóng viên: Cục trưởng có thể cho biết, năm 2025, công tác rà soát hệ thống văn bản về công tác kiểm định chất lượng sẽ tiếp tục được thực hiện ra sao để khắc phục dần những bất cập theo thời gian khi triển khai công tác kiểm định?
Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Chương: Hiện nay, Cục Quản lý chất lượng đang tham mưu để Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi một số văn bản quan trọng liên quan đến kiểm định chất lượng giáo dục đại học. Cụ thể:
Dự kiến ngay trong quý I/2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ ban hành các quy định sửa đổi của Thông tư 04/2016/TT-BGDĐT (về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo) và Thông tư 38/2013/TT-BGDĐT (về quy trình và chu kỳ kiểm định chương trình đào tạo). Ngoài ra, chúng tôi cũng đang rà soát toàn bộ các thông tư liên quan đến ngành đào tạo đặc thù để đảm bảo tính thống nhất và phù hợp với thực tiễn. Những thay đổi này được kỳ vọng sẽ tạo ra bước tiến lớn trong công tác kiểm định chương trình đào tạo.
Trong năm 2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng có kế hoạch sửa đổi và thay thế Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học. Mục tiêu là đến cuối năm 2025, việc sửa đổi này sẽ được hoàn thành. Quá trình điều chỉnh sẽ tiếp thu những thay đổi trong hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước và học hỏi các mô hình kiểm định tiên tiến trên thế giới để nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm định.
Đặc biệt, năm 2025 này cũng là lần đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiến hành đánh giá các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục đến chu kỳ 5 năm. Trước đây, các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục là đơn vị thực hiện đánh giá các cơ sở giáo dục đại học, nhưng nay, chính các trung tâm này cũng sẽ được tổ chức đánh giá lại khi đến thời điểm gia hạn giấy phép hoạt động. Các trung tâm chỉ được gia hạn giấy phép nếu đáp ứng đầy đủ yêu cầu theo quy định tại Nghị định số 125/2024/NĐ-CP quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục.
Việc đánh giá các trung tâm kiểm định sẽ tuân theo Thông tư 13/2023/TT-BGDĐT (về quy định về giám sát, đánh giá tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm). Kết quả đánh giá sẽ được công khai trên hệ thống thông tin của Bộ, giúp xã hội có thể theo dõi và lựa chọn các tổ chức kiểm định có uy tín. Đây cũng là một bước đột phá nhằm nâng cao trách nhiệm và tính minh bạch của các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục.
Ngoài ra, cũng cần điều chỉnh những vấn đề về thủ tục hiện nay đang còn sự khác nhau giữa trường tư thục và trường công lập để đảm bảo công bằng. Ví dụ như hiện nay đang có sự khác biệt trong cách thức lựa chọn tổ chức kiểm định giữa hai loại hình trường: các trường công lập lựa chọn đơn vị kiểm định thông qua đấu thầu, còn các trường tư thục thì tự lựa chọn. Về vấn đề này Bộ sẽ tiếp tục nghiên cứu, phối hợp với các bộ, ngành liên quan để đề xuất các điều chỉnh phù hợp, tạo sự thống nhất.
Phóng viên: Để hoàn thành tốt các mục tiêu về bảo đảm và kiểm định chất lượng giai đoạn 2026-2030 theo Quyết định 78, năm 2025, Cục trưởng có gửi gắm, kỳ vọng gì đối với các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, cơ sở giáo dục đại học về công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng?
Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Chương: Đối với các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, cần bám sát Quyết định 78 của Thủ tướng Chính phủ và các hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo để triển khai công tác kiểm định một cách hiệu quả. Trong đó, tôi kỳ vọng vào một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Trước hết, cần tập trung phát triển và nâng cao năng lực đội ngũ kiểm định viên, đảm bảo có đủ chuyên gia đáp ứng kiểm định tất cả các ngành đào tạo. Chất lượng kiểm định phụ thuộc rất lớn vào năng lực của kiểm định viên, vì vậy việc đào tạo chuyên sâu là rất quan trọng.
Thứ hai, phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Nếu các trung tâm kiểm định chỉ tập trung trong nước mà không kết nối với các tổ chức kiểm định nước ngoài để học tập, chia sẻ kinh nghiệm thì sẽ là một hạn chế rất lớn.
Thứ ba, giữa các trung tâm kiểm định trong nước cũng cần có sự liên kết, xây dựng mạng lưới để chia sẻ kinh nghiệm, thay vì hoạt động độc lập mà không có sự phối hợp với nhau.
Cuối cùng, phải có được một số kiểm định viên đạt chuẩn quốc tế, đồng thời liên tục cải tiến, đổi mới quy trình kiểm định để phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đáp ứng đúng tầm với các cơ sở giáo dục đại học.
Còn đối với cơ sở giáo dục đại học, một trong những nhiệm vụ quan trọng đó là quan tâm là thực hiện hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong.
Các trường cần chủ động xây dựng kế hoạch, hoàn thiện hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ từ cấp bộ môn, phòng, khoa đến Ban giám hiệu, Hội đồng trường đồng thời kết nối với các bên liên quan, trong đó có các trung tâm kiểm định giáo dục.
Bên cạnh đó, phải tập trung vào cải tiến chất lượng liên tục thông qua việc đầu tư, huy động nguồn lực, đổi mới chương trình đào tạo thực chất và tăng cường kiểm định một số chương trình theo chuẩn quốc tế, đảm bảo sự cân bằng giữa kiểm định trong nước và kiểm định quốc tế để học tập từ các mô hình tiên tiến.
Đồng thời, cần có đối sánh giữa kết quả kiểm định theo chu kỳ 5 năm để đánh giá những thay đổi nổi bật của nhà trường, từ đó có những điều chỉnh phù hợp.
Cuối cùng, các cơ sở giáo dục đại học cần chủ động tham mưu, đóng góp ý kiến để hoàn thiện chính sách, bao gồm Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục và các thông tư hướng dẫn về kiểm định chất lượng,... Các trường phải có trách nhiệm đóng góp ý kiến mạnh mẽ để các quy định này sát với thực tế hơn.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Chương.
Quyết định số 78/QĐ-TTg đặt mục tiêu theo từng giai đoạn như sau:
Giai đoạn 2022 - 2025: Hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong các cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm (sau đây gọi chung là cơ sở đào tạo) được cơ bản hoàn thành; năng lực hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm được nâng cao, cụ thể:
a) 100% cơ sở đào tạo hoàn thành hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong với mục tiêu, chính sách, nguồn lực, nhiệm vụ, kế hoạch, các quy trình bảo đảm chất lượng và hệ thống thông tin bảo đảm chất lượng được xác định rõ ràng phù hợp với sứ mạng, mục tiêu và điều kiện thực tế của cơ sở đào tạo trong từng giai đoạn trên cơ sở các bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trong nước và nước ngoài;
b) 100% cơ sở đào tạo hoàn thành tự đánh giá, 95% cơ sở đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng chu kỳ kiểm định lần thứ nhất; 70% cơ sở đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng chu kỳ kiểm định lần thứ hai;
c) 35% số chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng theo chu kỳ kiểm định lần thứ nhất; trong đó có ít nhất 10% số chương trình đào tạo đạt theo tiêu chuẩn nước ngoài (sau đây gọi là kiểm định quốc tế), 100% số chương trình đào tạo giáo viên các trình độ đạt tiêu chuẩn chất lượng;
d) 100% các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục được đánh giá đạt tiêu chuẩn đánh giá theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; 10% các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục được đánh giá đạt theo tiêu chuẩn đánh giá của tổ chức bảo đảm chất lượng quốc tế;
đ) 50% tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước tham gia vào mạng lưới các tổ chức bảo đảm chất lượng quốc tế hoặc có thỏa thuận hợp tác quốc tế trong việc công nhận kết quả kiểm định lẫn nhau;
e) Có ít nhất 750 người được cấp thẻ kiểm định viên; 100% kiểm định viên được bồi dưỡng chuyên sâu về công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục trong đó có 5% kiểm định viên có chứng nhận và tham gia hoạt động kiểm định quốc tế;
g) 90% công chức và 70% viên chức, người lao động trong cơ quan quản lý nhà nước và cơ sở đào tạo làm việc ở các vị trí về bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục được bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu tham mưu xây dựng và thực thi chính sách, quy định về bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục; trong đó có 20% được tập huấn, đào tạo bởi chuyên gia quốc tế và khu vực.
Giai đoạn 2026 - 2030: Phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm; phát triển bền vững hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm:
a) 100% cơ sở đào tạo phát triển hệ thống đảm chất lượng bên trong để thực thi hiệu quả mục tiêu chiến lược và văn hóa chất lượng của cơ sở đào tạo;
b) 100% cơ sở đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng theo các chu kỳ kiểm định phù hợp (chu kỳ kiểm định lần thứ nhất với cơ sở đào tạo mới có một khóa người học tốt nghiệp hoặc các chu kỳ kiểm định tiếp theo với cơ sở đào tạo đã đạt kiểm định chất lượng giai đoạn trước năm 2025);
c) 80% số chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng chu kỳ kiểm định lần thứ nhất hoặc lần thứ hai; trong đó có ít nhất 20% số chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn chất lượng kiểm định quốc tế, 100% số chương trình đào tạo giáo viên các trình độ đạt tiêu chuẩn chất lượng;
d) 100% các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước tự đánh giá theo khung tiêu chuẩn đánh giá của khu vực ASEAN, trong đó 20% đạt theo tiêu chuẩn đánh giá của tổ chức bảo đảm chất lượng quốc tế;
đ) 100% tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước tham gia các tổ chức bảo đảm chất lượng quốc tế hoặc có thỏa thuận hợp tác quốc tế trong việc công nhận kết quả kiểm định lẫn nhau;
e) Có ít nhất 1500 người được cấp thẻ kiểm định viên; 100% kiểm định viên được bồi dưỡng định kỳ, chuyên sâu về công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. 7% kiểm định viên có chứng nhận và tham gia hoạt động kiểm định quốc tế;
g) 100% công chức, viên chức, người lao động làm việc ở các vị trí trong cơ quan quản lý nhà nước và cơ sở đào tạo về bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục được bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ đáp ứng yêu tham mưu xây dựng và thực thi chính sách, quy định về bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục, trong đó có 35% được tập huấn, đào tạo bởi chuyên gia quốc tế và khu vực.