'Cuộc Cách mạng Xanh' lần thứ ba của lúa gạo Việt Nam
Đề án 'Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh cây lúa chất lượng cao vùng ĐBSCL'. Mục đích làm cho cây lúa Việt Nam còn phải xanh hơn, có giá trị cao hơn...

Toàn cảnh hội nghị - Ảnh: Văn Kim Khanh
Các lĩnh vực Nhật Bản quan tâm đối với nông nghiệp vùng ĐBSCL
Sáng ngày 12.12, Hội nghị xúc tiến đầu tư FDI Nhật Bản đã được tổ chức tại TP. Cần Thơ. Hội nghị bàn về Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030”. UBND TP.Cần Thơ, Bộ Nông nghiệp & Môi trường (NN&MT) và Bộ Nông - Lâm - Ngư nghiệp Nhật Bản cùng phối hợp tổ chức hội nghị này. Tại hội nghị, cho thấy nhiều cơ hội và thách thức trong tương lai cho cây lúa Việt Nam tại vùng ĐBSCL đã được hai bên chia sẻ và thảo luận.
Ông Trần Chí Hùng, Phó chủ tịch UBND TP.Cần Thơ, đã nêu bật những thế mạnh của ngành nông nghiệp vùng ĐBSCL, cùng những tiềm năng hợp tác giữa doanh nghiệp hai nước trong tương lai, kêu gọi các doanh nghiệp công nghệ cao Nhật Bản tăng cường đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp ở ĐBSCL.

Ông Trần Chí Hùng, Phó chủ tịch UBND TP.Cần Thơ phát biểu - Ảnh: Kim Anh
Ông Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác - Bộ NN&MT, khẳng định: Sự hợp tác với Nhật Bản thông qua nguồn vốn FDI này nhằm kiến tạo một hệ sinh thái sản xuất mới, tập trung vào: Tổ chức nông dân (Hợp tác xã) – Liên kết chuỗi giá trị lúa gạo giảm phát thải – Chuyển đổi số – Thị trường carbon. Ông kỳ vọng xây dựng một chuỗi giá trị toàn diện bao gồm: giống sản xuất, thu hoạch , chế biến, tiêu thụ, với mục tiêu giảm phát thải từ cây lúa Việt. Cụ thể, trong thời gian tới, các kỹ thuật canh tác lúa tiên tiến sẽ được áp dụng như: “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”, kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ (AWD), và bón phân hợp lý.
Theo ông Lê Đức Thịnh, sau 2 năm triển khai Đề án ngành sản xuất lúa gạo, nước ta đã đạt được những thành tựu cơ bản sau: Kết quả thí điểm trên 11 điểm, với tổng diện tích 543,5 ha và 355 hộ tham gia, năng suất lúa tăng trung bình 5,12 tạ/ha.

Ông Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác - Bộ NN&MT phát biểu - Ảnh: V.K.K
Hiệu quả kinh tế chi phí sản xuất giảm từ 1,7 – 4,9 triệu đồng/ha; giá thành sản xuất giảm từ 326 – 1.052 đồng/kg lúa; thực hiện rút nước thành công 2 – 3 lần/vụ; kết quả đo đếm cho thấy phát thải giảm 3,7 tấn CO₂e/ha/vụ, Việt Nam đã có 354.800 ha khai thác bền vững, giảm phát thải tại 6 tỉnh.
Diện tích được chứng nhận VietGAP là 7.493 ha; diện tích hữu cơ đạt 246 ha; và diện tích an toàn vệ sinh thực phẩm (ATTP) là 5.659 ha. Đề án cũng đã hình thành các chuỗi gạo xanh của các công ty như Trung An, Tân Long, v.v.
Hạt gạo Việt ba lần chuyển mình
Sản xuất lúa gạo Việt Nam đến nay đã trải qua ba lần chuyển đổi mạnh mẽ: Cách mạng lần thứ nhất (1960 – 1970) khởi đầu bằng cuộc cách mạng về công nghệ sinh học giống cây trồng và sử dụng phân hóa học. Trong giai đoạn này, Nhà nước đã tiến hành chọn lọc và lai tạo các giống lúa ngắn ngày, chịu hạn, chống đổ ngã, và cho năng suất cao hơn các giống truyền thống. Đồng thời, việc nhập và khảo nghiệm giống lúa từ IRRI và bắt đầu sử dụng phân bón hóa học trên diện rộng đã diễn ra. Cách mạng lần thứ hai (Nghị quyết 10.1988) bắt nguồn từ sự thay đổi về thể chế, Nghị quyết 10 cho phép xác lập hộ nông dân trở thành đơn vị sản xuất tự chủ. Việc chuyển từ quản lý tập thể sang trao quyền cho hộ cá thể đã kích hoạt sự năng động của nông dân, dẫn đến kết quả từ một quốc gia thiếu đói trở thành quốc gia xuất khẩu gạo kể từ năm 1989.

Bà Nguyễn Thị Giang, Phó giám đốc Sở NN&MT TP.Cần Thơ -Ảnh: V.K.K
Cách mạng lần thứ ba (2023 – 2030) là cuộc Cách mạng Xanh – Số trong nông nghiệp, dự kiến hoàn thành với Đề án: “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh cây lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL”. Đề án lần này hướng đến mục đích làm cho cây lúa Việt Nam không chỉ đạt năng suất cao mà còn phải xanh hơn, ít phát thải hơn, và có giá trị cao hơn.
Những thách thức cho cây lúa Việt trong sản xuất và thị trường công nghệ số
Đại diện phía Nhật Bản, ông Hagiwara Hideki – Phó cục trưởng Cục Môi trường, Xuất khẩu và Hợp tác Quốc tế (tham gia trực tuyến), đã nhấn mạnh sự hợp tác sâu rộng giữa 2 ngành nông nghiệp Việt Nam – Nhật Bản, trong nhiều năm qua. Từ việc nghiên cứu phát triển giống lúa, kỹ thuật gieo trồng, bảo quản, đào tạo nhân sự, đến các dự án hợp tác về nông nghiệp công nghệ cao theo tiêu chuẩn Nhật Bản (JGAP, GlobalGAP), đầu tư thiết bị máy móc và chuyển giao kỹ thuật canh tác tiên tiến. Ông ghi nhận và cảm ơn sự hợp tác song phương bền vững này.
Hội nghị nhấn mạnh rằng, trong giai đoạn sắp tới, Đề án cần tập trung mạnh mẽ hơn vào việc áp dụng công nghệ trong: sản xuất, chế biến, và chuyển đổi số, xanh, truy xuất nguồn gốc.
Về công nghệ sản xuất cần chú trọng đến sức khỏe đất sau mỗi mùa vụ, công nghệ tưới, phân bón và quản trị rơm rạ. Công nghệ chế biến mục tiêu là phát triển chuỗi logistics lúa gạo xanh, đẩy mạnh bảo quản và chế biến sâu nhằm giảm thất thoát sau thu hoạch.
Công nghệ chuyển đổi số, xanh, truy xuất nguồn gốc cần triển khai hệ thống quản lý truy xuất nguồn gốc theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng nền tảng số dùng chung, và ứng dụng mạnh mẽ IoT, robot, Big Data trong nông nghiệp.
Tại Hội thảo, đại diện Sở NN&MT các tỉnh và doanh nghiệp Việt – Nhật cũng đưa ra nhiều băn khoăn về tình trạng thực tiễn: Biến đổi khí hậu do sự biến đổi của khí hậu ngày càng xấu và khó lường (mưa bất chợt, lưu lượng nước khó kiểm soát) đã ảnh hưởng lớn đến quá trình gieo trồng. Điều này buộc nhiều khu vực tại ĐBSCL phải chuyển đổi mô hình từ chuyên canh sang trồng xen vụ hoặc chuyển đổi cây trồng khác phù hợp với điều kiện thời tiết hơn.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ hiện tại lại đối lập với nguồn lao động trực tiếp đang thực hiện gieo trồng. Đây là một thách thức lớn trong quá trình chuyển giao hoặc phổ biến công nghệ để áp dụng một cách sát sao và khả thi cho từng nông hộ.
Hội nghị cũng nêu lên các biến thiên của thị trường xuất khẩu gạo đôi khi bị ảnh hưởng rất lớn từ nhu cầu tiêu thụ ngoài nước, nếu có sự thay đổi đột ngột từ các yếu tố xã hội, chính trị, và thu nhập của cư dân nước sở tại.

Trưng bày chế phẩm sinh học tại hội nghị - Ảnh: V.K.K
Bà Nguyễn Thị Giang, Phó giám đốc Sở NN&MT TP.Cần Thơ, cho rằng đây là cơ hội để các doanh nghiệp hai nước gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu cơ hội hợp tác đầu tư nhằm khai thác thế mạnh của nhau trong phát triển kinh tế, từ đó nâng tầm nông sản Việt Nam bằng sự phối hợp công nghệ Nhật Bản. Mục tiêu là hạt gạo Xanh Việt Nam vươn xa trên thị trường thế giới.













