Cuộc chiến thầm lặng tiếp nối Hiệp định Paris
Hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là một bước tiến dài để chúng ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân 1975. Vì vậy, vấn đề bảo đảm thi hành Hiệp định đặt ra yêu cầu rất cao, nhằm giám sát sự rút quân của Mỹ cũng như việc trao trả nhân viên quân sự và dân sự giữa các bên liên quan.
Trại Davis nguyên là trại lính của quân đội Mỹ ở phía Tây Nam căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, là trụ sở của Ban Liên hợp Quân sự và là nơi hai đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đóng quân.
“Pháo đài” trong lòng địch
Chia sẻ tại Tọa đàm “Thi hành Hiệp định Paris - Câu chuyện của những nhân chứng lịch sử Trại Davis” sáng 25.4, Đại tá Đào Chí Công, sĩ quan đối ngoại Văn phòng Đoàn Đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Trưởng Ban liên lạc Hội CCB Ban Liên hợp Quân sự Trại Davis, cho biết, ngay sau khi Hiệp định được ký kết ngày 27.1.1973, Đảng đã điều động lực lượng cán bộ, sỹ quan lên đường làm nhiệm vụ tại Trại Davis vào ngày 28.1.1973. Đến ngày 30.4.1975, lực lượng Liên hợp quân sự đã đấu tranh cách mạng, thực thi Hiệp định Paris ngay giữa trung tâm đầu não của Việt Nam Cộng hòa.
“Chúng tôi bị cô lập trong các dãy nhà mái lợp fibro xi măng, bao quanh là hàng rào thép gai dày đặc. Nội thất, đồ dùng, bàn ghế hoàn toàn bằng sắt, lại sinh hoạt dưới thời tiết nắng nóng của Sài Gòn, khiến chúng tôi thấy rất áp lực. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh ấy, các thành viên trong đoàn lợi dụng tiếng máy bay lên xuống để cắt sàn nhà, đào hầm trú ẩn. Xẻng cuốc không đủ anh em phải dùng lưỡi lê, dao găm, cọc màn bằng sắt đập dẹt làm xà beng. Thế là Trại Davis đã hình thành hệ thống hầm hào, công sự liên hoàn, có hầm chỉ huy, hầm quân y…”, Đại tá Đào Chí Công kể.
Nhớ lại những ngày tháng gian khổ, Đại tá Đinh Quốc Kỳ, nguyên sĩ quan liên lạc cho biết thêm, tại các dãy nhà, địch giở các thủ đoạn hòng quấy nhiễu như đặt máy nghe trộm, cắt điện nước. Khi đó, để bảo đảm bí mật Ban An ninh của đoàn phải dò tìm nhằm phát hiện và tháo gỡ các thiết bị nghe trộm gắn trong tường. Việc bị cắt nước thì anh em tổ chức đào giếng, song với việc bị cắt điện, đoàn ta vẫn bình thản chịu đựng dù phải sống trong những căn nhà lợp fibro xi măng dưới cái nắng như thiêu đốt.
Sĩ quan chính trị Phạm Văn Lãi cũng không quên một thời làm nhiệm vụ chiếu phim phục vụ cán bộ, chiến sĩ ta trong Trại Davis. Ngày ấy, dù cuộc sống bị giới hạn bên trong 13 vọng gác của địch, suốt ngày bị chĩa súng vào, các thành viên hai đoàn vẫn rất bình thản, sống trật tự và có kỷ luật. Những hoạt động thể thao như chơi bóng bàn, bóng chuyền, những chương trình giải trí bằng âm nhạc, chiếu phim được duy trì đều đặn. Nhiều khi, địch còn gây khó khăn trong việc tiếp tế, nhưng tất cả vẫn vui vẻ, lạc quan, phục vụ mục đích lớn nhất bấy giờ là đấu tranh buộc đối phương tuân thủ các điều khoản Hiệp định Paris.
Quyết chiến cho ngày thống nhất
Quá trình đàm phán, đấu tranh dư luận luôn là nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện Hiệp định Paris ở miền Nam. Đại tá Đào Chí Công kể lại, hai đoàn đại biểu quân sự của ta luôn thực hiện nhiệm vụ này một cách chủ động, tích cực. “Chúng tôi đấu tranh mạnh mẽ thúc đẩy việc hoàn thành trao trả tù quân sự và tù dân sự của các bên bị bắt trong chiến tranh, buộc đội quân xâm lược ra khỏi miền Nam đúng thời hạn, thực hiện trọn vẹn yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh "đánh cho Mỹ cút". Bên cạnh đó, chúng tôi phối hợp và hỗ trợ cho tiếng súng ngày càng mạnh của ta trên chiến trường, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới để tiến hành trận quyết chiến cuối cùng "đánh cho ngụy nhào", thống nhất Tổ quốc. Hàng tuần, chúng tôi tổ chức các cuộc họp báo có sự tham gia của hàng trăm phóng viên trong nước và quốc tế, kịp thời nắm bắt diễn biến trên chiến trường, nắm bắt thông tin, bằng chứng xác thực về hành động của đối phương để thực thi nhiệm vụ...
CCB Phạm Văn Lãi kể, khoảng 8 giờ ngày 30.4.1975, Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn - Trưởng đoàn đại biểu quân sự, lệnh cho Trung tá Mười Sương, Trưởng ban Chính trị gọi ông lên giao nhiệm vụ lấy lá cờ to nhất mang cắm lên tháp nước Trại Davis. Thượng sĩ Phạm Văn Lãi, khi đó mới 23 tuổi phấn khởi vì được thủ trưởng tin cậy, với nhiệt tình cách mạng của tuổi trẻ, đã quyết định trực tiếp treo cờ. Anh cùng với cảnh vệ Nguyễn Văn Cẩn chạy băng qua sân Trại, chui vào lồng bảo vệ trèo lên đỉnh tháp, buộc chắc hai đầu. Lá cờ giải phóng tung bay trên đỉnh tháp trong sân bay Tân Sơn Nhất, từ xa hàng cây số đã nhìn thấy, vừa là vật chuẩn cho pháo binh ta tính toán phần tử bắn chính xác, làm chuẩn cho bộ đội tiến công, khích lệ bộ đội ta dũng mãnh xông lên. Quân địch ở Bộ Tổng Tham mưu ngụy tại cổng Phi Long cách đó gần 1 cây số, lính Sư đoàn dù, đơn vị tăng - thiết giáp ngụy đóng gần Trại Davis và tàn quân đang tháo chạy nhìn thấy lá cờ giải phóng, càng thêm hoảng loạn, tan rã...
Qua 823 ngày đêm tại Trại Davis (28.1.1973 - 30.4.1975), phái đoàn quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên mặt trận ngoại giao quân sự, đấu tranh bảo đảm việc thi hành Hiệp định Paris về Việt Nam. Trại Davis khi đó với 300 thành viên ưu tú, không có gì trong tay, nhưng họ đã cố gắng liên lạc, kết nối với nhau, kiên trung, vững vàng, đoàn kết, đấu tranh đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn tuân thủ Hiệp định Paris, góp phần làm nên thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.