Cuộc sơ tán 3 vạn học sinh Vĩnh Linh để bảo toàn nòi giống ít người biết
Giữa khói lửa chiến tranh, để bảo toàn tính mạng cho hơn 3 vạn học sinh, cuộc trường chinh K8 thần tốc trở thành mốc son chói lọi với sứ mệnh giữ giống nòi mai sau.
Vĩ tuyến 17, bờ Hiền Lương, sông Bến Hải – những địa danh của vùng đất Vĩnh Linh anh hùng theo năm tháng chiến tranh đã đi vào lịch sử. Cũng tại tọa độ từng bị giày xéo bởi bom đạn tàn khốc này, một chiến dịch sơ tán diễn ra cách đây gần 6 thập kỷ đã mở ra cơ hội sống sót của hơn 3 vạn học sinh. Để hôm nay, khi nhìn lại, ai nấy đều rưng rưng niềm xúc động về một thời bi thương nhưng rất đỗi hào hùng.
Cuộc trường chinh “có một không hai”
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (năm 1954), vĩ tuyến 17 trở thành giới tuyến quân sự tạm thời. Song, với dã tâm âm mưu xâm lược, đế quốc Mỹ đã biến sông Bến Hải (huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) thành cột mốc chia cắt dải đất hình chữ S.
Đầu năm 1965, không quân Mỹ bắt đầu oanh tạc khi trút những trận bom tàn khốc xuống Vĩnh Linh. Từ một vùng quê yên ả, xóm làng bỗng chốc lâm cảnh xác xơ, hàng nghìn đồng bào oằn mình giành giật mạng sống từng giây từng phút dưới mưa bom bão đạn.
Và để bảo toàn tính mạng, quân và dân Vĩnh Linh đã đào hàng trăm địa đạo, dựng hầm tránh trú xuyên sâu vào lòng đất. Ấy nhưng, hàng vạn con em đang ở tuổi ăn tuổi lớn của vùng đất lửa không thể ngày qua ngày theo chân cha anh xuống ẩn nấp trong các căn hầm với không gian chật chội. Trước tình hình đầy cam go với sứ mệnh bảo toàn tính mạng cho các mầm non tương lai của đất nước, Trung ương Đảng quyết định sơ tán hơn 3 vạn thiếu nhi Vĩnh Linh ra các tỉnh miền Bắc.

Cuộc trường chinh K8 thần tốc trở thành mốc son chói lọi với sứ mệnh giữ giống nòi mai sau.
Lúc bấy giờ, Trung ương đã lập ra một ban chuyên trách về chiến dịch gọi là Ban K8 do Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Trần Hữu Dực làm trưởng ban, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Lê Tất Đắc đặc trách chiến dịch. Trên hành trình của cuộc di dân này, tại các tỉnh từ Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Hà, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình... đều có ban chuyên trách riêng để tiếp nhận, giúp đỡ các em.
Từ tháng 8/1966 đến cuối năm 1967, hơn 3 vạn học sinh Vĩnh Linh và các vùng Gio Linh, Cam Lộ đang sơ tán tại Vĩnh Linh được đưa ra các tỉnh miền Bắc, về sống nhờ trong các hộ gia đình. Các em được đến trường, học hành cho đến năm 1973, khi Quảng Trị hoàn toàn giải phóng mới về lại quê hương.
Năm nay đã ngoài tuổi bát thập cổ lai hy, song khi nhắc về cuộc trường chinh K8 – mốc son chói lọi của quân và dân ta, ông Dương Ngọc Trai (SN 1943, một người con của quê hương Vĩnh Linh) vẫn có thể kể vanh vách. Với ông, câu chuyện đi vào lịch sử như mới diễn ra ngày hôm qua.
Trong tâm trí ông Trai, những ngày tháng gian lao nhưng đầy khí phách ấy không hề phai nhạt theo thời gian. Nhắc đến K8, ông có thể kể chi tiết từng sự kiện, từng chặng đường mà đồng đội và bản thân đã đi qua. Đó không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn là câu chuyện chung của cả một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Với giọng kể trầm ấm và đôi mắt ánh lên niềm tự hào, ông như làm sống lại ngày tháng lịch sử. Những trải nghiệm ấy không chỉ là bài học về lòng yêu nước, mà còn là nguồn động viên để thế hệ trẻ hôm nay thêm trân trọng quá khứ, tiếp bước cha anh dựng xây quê hương.
Ông Dương Ngọc Trai nhớ như in, buổi sáng tháng 6/1966, ông đến Ty Giáo dục Vĩnh Linh, lúc đó đặt tại chiếc lán hầm ở thôn Đặng Xá, xã Vĩnh Lâm. Tại đây, ông được giao nhiệm vụ tham gia đội liên ngành thực hiện chiến dịch K8 – một nhiệm vụ hết sức tối mật, không được lộ ra ngoài. Dù không biết trước thử thách đang chờ đợi, ông vẫn sẵn sàng nhận lệnh, ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với đất nước.
Những ngày sau đó, ông cùng đồng đội bước vào một hành trình đầy gian nan nhưng rất đỗi tự hào. Mang mật danh trạm 31B, Đội công tác liên ngành trạm K8 Vĩnh Linh được giao nhiệm vụ quan trọng là tổ chức và triển khai kế hoạch sơ tán học sinh trên tuyến đường từ Vĩnh Linh đến Võ Xá (xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình).

Cầu Hiền Lương - "chứng nhân" lịch sử.
Trong bối cảnh chiến tranh ác liệt, việc đảm bảo an toàn cho học sinh là ưu tiên hàng đầu. Mọi hoạt động đều diễn ra bí mật, chặt chẽ, đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng. Hành trình sơ tán đầy gian truân, nhưng với lòng quyết tâm và tinh thần trách nhiệm, các thành viên trạm 31B đã đưa nhiều thế hệ học sinh vượt qua bom đạn, đến nơi an toàn, tiếp tục con đường học tập. Đây không chỉ là nhiệm vụ, mà còn là sứ mệnh cao cả, góp phần giữ vững tương lai của đất nước trong thời khắc cam go.
Theo ông Trai, những buổi đầu chiến dịch, trạm K8 Vĩnh Linh được đặt tại thôn Thủy Trung (xã Vĩnh Trung) - nơi có địa hình thuận lợi cho việc tập kết học sinh trước khi sơ tán. Tuy nhiên, nếu vào mùa mưa, con đường trở nên trơn trượt khiến xe ô tô di chuyển khó khăn hơn. Để đảm bảo an toàn và thuận lợi hơn cho công tác vận chuyển, đầu tháng 8/1967, trạm được chuyển về thôn Mỹ Tú (xã Vĩnh Tú) và duy trì tại đây cho đến khi chuyến xe cuối cùng chở học sinh Trường Trung học Phổ thông Vĩnh Linh rời địa bàn.
Ngoài ra, trạm K8 còn tổ chức nhiều điểm tập kết khác để đón học sinh từ các vùng lân cận. Thôn Thượng Hòa (xã Vĩnh Long) được chọn làm nơi tập kết cho học sinh vùng Lâm-Sơn-Thủy và xã Vĩnh Long; trong khi thôn Lai Bình, xã Vĩnh Chấp là điểm tập kết của học sinh Trường Thanh niên Dân tộc. Những địa điểm này đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức, điều phối kế hoạch sơ tán, góp phần đảm bảo an toàn cho thế hệ trẻ giữa thời kỳ chiến tranh ác liệt.

Nhà giáo ưu tú Dương Ngọc Trai bên gia đình.
“Để đảm bảo tuyệt đối bí mật, mọi thông tin về chuyến đi chỉ được thông báo trước chưa đầy một ngày. Các xã lập danh sách học sinh, sau đó tập trung về các huyện, thị xã để chờ lệnh di chuyển. Kế hoạch không thực hiện đồng loạt, mà chỉ triển khai khi địch tạm ngừng ném bom. Nhiều gia đình chỉ biết con mình sẽ đi sơ tán vào tối hôm trước ngày khởi hành, và danh sách học sinh cũng được giữ kín đến phút cuối cùng. Mỗi xe được bố trí 1 cán bộ hộ tống từ lực lượng dân quân, 1 y tá kiêm bảo mẫu, cùng 1-2 giáo viên để chăm sóc các em. Trung bình, mỗi chuyến xe chở khoảng 40 học sinh và cán bộ. Nhờ sự tổ chức chặt chẽ và bí mật, chiến dịch sơ tán đã đảm bảo an toàn cho hàng nghìn học sinh giữa bom đạn chiến tranh” – ông Trai hồi tưởng.
Trạm K8 Vĩnh Linh đảm nhận ba nhiệm vụ quan trọng cùng lúc để tổ chức sơ tán học sinh an toàn. Đầu tiên, một tổ công tác được cử về các xã để kiểm tra, đôn đốc việc chuẩn bị cho học sinh lên đường. Đồng thời, hai cán bộ thực hiện nhiệm vụ khảo sát, theo dõi tình hình trên tuyến đường dài khoảng 50km từ Vĩnh Linh đến trạm Võ Xá (Quảng Bình).
Ngoài ra, trạm bố trí hai cán bộ đi tiền trạm, xuất phát trước đoàn xe khoảng một giờ để kiểm tra lộ trình. Nếu phát hiện nguy hiểm hoặc chướng ngại vật, xe tiền trạm lập tức quay lại báo tin, giúp đoàn xe K8 kịp thời điều chỉnh, tránh tổn thất. Khi đến nơi an toàn, nhóm này thực hiện kiểm kê, lập biên bản bàn giao số lượng học sinh cho trạm Võ Xá, đảm bảo mọi hoạt động diễn ra chính xác, hiệu quả.
Hành trình sơ tán diễn ra trong muôn vàn gian khó, thử thách ý chí của cả thầy trò lẫn lực lượng hộ tống. Học sinh được sắp xếp theo từng nhóm tuổi, nhưng chỉ một số đoạn đường có xe trung chuyển, còn lại nhiều em phải đi bộ hàng trăm cây số.
Trên suốt chặng đường, các đoàn không ít lần phải liều mình băng qua những khu vực bom rơi, lửa cháy. Để tránh sự chú ý của địch, nhiều chuyến đi buộc phải xuất phát trong đêm, lặng lẽ rời làng quê dưới ánh trăng mờ. Cứ thế, thầy cô, bảo mẫu và các em nhỏ kiên trì sơ tán, đêm đi ngày nghỉ, hoặc tranh thủ lúc bom ngừng để tiếp tục hành trình. Hầu hết đều phải đi bộ, thức ăn chủ yếu là lương khô, cơm nắm, nước uống đựng trong ống bương mang theo. Những đôi chân bé nhỏ đã băng rừng, lội suối, trèo đèo, vượt hàng trăm cây số đầy gian khổ để đến miền Bắc an toàn, mang theo niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng giữa chiến tranh khốc liệt.
“Đến giờ ngẫm lại mới thấy mọi chuyện quá bi hùng. Nếu chỉ tính trong giai đoạn lịch sử hiện đại, chưa bao giờ có cuộc chiến tranh nào mà toàn bộ người dân phải rời bỏ ‘quê cha, đất tổ’, tìm đến nơi khác để duy trì sự sống. Vậy mà, nhờ ý chí quật cường, người Vĩnh Linh đã vượt qua”, ông Trai xúc động và chia sẻ rằng, bên cạnh bom đạn, khó khăn lớn nhất của chiến dịch K8 là nỗi đau chia ly.
Nhiều em còn quá nhỏ để rời xa vòng tay cha mẹ, trong khi gia đình cũng chẳng nỡ rời con thơ. Nhưng trước hiểm nguy của chiến tranh, họ buộc phải gạt nước mắt, chấp nhận chia xa để bảo vệ tương lai cho con cái. Dù đau đớn, ai cũng hiểu rằng nếu ở lại, cả gia đình có thể đối mặt với cái chết. Đó là những cuộc chia tay nghẹn ngào giữa thời khắc sinh tử.

Địa đạo Vịnh Mốc là di tích lịch sử tiêu biểu nằm trong cụm di tích “Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh”.
Cũng với lời hẹn “đi để được gặp Bác Hồ”, thầy giáo Nguyễn Ngọc Ý (xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Linh) cùng với nhiều trẻ em khác được đưa ra Bắc theo “kế hoạch K8”.
Theo thầy Ý, tháng 8/1967, năm ấy ông chừng 11 tuổi, cùng em gái được bố mẹ gọi dậy lúc đêm khuya. Sau đó, hai anh em được bố mẹ đưa cho chiếc gùi, bên trong chỉ có vài bộ quần áo cùng một chiếc ống tre đựng nước với lời dặn: “Đây là hành trang để ra miền Bắc học tập và gặp Bác Hồ nghe con”.
Dứt câu, cha dắt hai anh em đến điểm tập kết, đi dọc các hào, men theo các lối tắt để tránh bị địch phát hiện. Ra đến nơi tập trung, thầy Ý choáng ngợp vì thấy quá nhiều người.
“Một vài bạn trong đó khóc lớn, mẹ con ôm nhau không rời. Khi ấy, tôi mới biết là mình sắp sửa đi sơ tán…Chỉ cần ngừng ném bom là chúng tôi đi. Đoàn tôi đi suốt hàng tháng trời, hầu hết là đi vào ban đêm. Ban ngày, chúng tôi sẽ nghỉ ngơi để lấy sức chờ tối đi tiếp. Đến một số đoạn an toàn, chúng tôi được leo lên xe. Đèn xe có khi tắt tối om để đánh lừa máy bay của địch. Trên xe bít bùng, chúng tôi đồng thanh hát vang. Hát để quên đi những ác liệt của chiến tranh”, thầy Ý nhớ lại.
Ban đầu, thầy Nguyễn Ngọc Ý tập kết ở xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Theo phân công, toàn bộ con em xã Vĩnh Tân (huyện Vĩnh Linh) sẽ cùng ở tại xã Yên Thành. Chưa đầy 1 tháng sau, thầy được sơ tán về xã Yên Nghĩa.

Thầy Nguyễn Ngọc Ý bồi hồi mỗi khi nhắc về chiến dịch K8.
“Tôi cứ nhớ mãi hình ảnh người người đông đúc chen chân ở sân kho của xã. Tất cả mọi người được tập hợp lại, các ông bà và cháu nhỏ đều được phát mỗi người nửa chiếc bánh trung thu và 2 múi bưởi. Đây là quà nhân dịp rằm Trung Thu. Tôi vui sướng ăn từng miếng một…Ngay sau đó, đến mục nhận gia đình, ai ai cũng hồi hộp và mong chờ xem mình được về nhà nào. Người dân địa phương cũng trông ngóng và tò mò không biết mình được nuôi bé trai hay bé gái. Một gia đình đến đón tôi, hai ông bà già ôm tôi vào lòng và vỗ về “từ nay, con đến ở với ông bà nhé…”, thầy Ý bồi hồi kể.
Giữ giống nòi cho mai sau
Cuộc trường chinh lịch sử của hơn 3 vạn học sinh K8 giờ đây đã đi vào quá vãng. Song ký ức hào hùng, oanh liệt vẫn còn sáng mãi cho tới tận hôm nay khi đất nước đã trải qua khoảng thời gian tròn 50 năm hòa bình.
Kết thúc chiến dịch có 70 con em Vĩnh Linh ngã xuống, trong đó có 59 thiếu nhi. Đó là sự mất mát không hề nhỏ, nhưng vẫn phải đi vì nếu ở lại Vĩnh Linh, con số hy sinh vì bom đạn sẽ nhiều hơn nữa. Chỉ có đi mới có ngày trở về để xây dựng, phát triển đất nước.
Với ông Trai và hơn 3 vạn học sinh đã đi vào trang sử vẻ vang của dân tộc, cuộc trường chinh K8 thần tốc trở thành mốc son chói lọi với sứ mệnh giữ giống nòi cho mai sau. Để hôm nay, hầu hết thế hệ K8 năm xưa giờ là những đảng viên, cán bộ chủ chốt, giáo viên giỏi của các trường học trên khắp mọi miền đất nước.
Nếu không có chiến dịch K8, e rằng đất nước chúng ta sẽ không có một Giáo sư, Tiến sĩ, Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Anh Trí - nguyên Viện trưởng Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương; một nhà giáo ưu tú như ông Dương Ngọc Trai - nguyên Trưởng phòng Giáo dục huyện Vĩnh Linh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Linh; cùng rất, rất nhiều những cán bộ, giáo viên đã và đang ngày đêm phụng sự cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Bà Chí cùng chị và mẹ. (Bức ảnh chụp năm 1969)
Mấy hôm nay, khi khắp nơi trên mọi miền đất nước long trọng tổ chức các sự kiện kỷ niệm ngày giải phóng quê hương, bà Lê Thị Chí (SN 1967, trú xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh) lại bồi hồi về sự kiện K8. K8, trong tâm trí bà Chí là chuỗi lời kể của mẹ. Bởi trong đợt sơ tán thứ 3 diễn ra từ tháng 8/1967, bà Chí khi ấy mới 3 tháng tuổi.
“Chào đời được 20 ngày, lúc đang nằm trong hầm trú bom cùng với cha mẹ và anh chị, một quả đồi đổ ập, vùi lấp cả miệng hầm sau trận thả bom của Mỹ. Chòm xóm ai cũng nghĩ cả gia đình đã thiệt mạng, nhưng rất may là một người cậu đã bới trong đống đổ nát để đưa cả nhà lên khỏi miệng hầm và thoát chết trong gang tấc. Chừng 2 tháng sau, mẹ dắt díu theo 2 anh chị cùng tôi sơ tán – đợt cuối cùng trong cuộc trường chinh” – bà Chí nói và chia sẻ thêm, sau lần “chết hụt” do bom đạn, bà tiếp tục trải qua giây phút đứng giữa lằn ranh sinh – tử trong hành trình trốn chạy “mưa bom”.
Sự là khi mẹ đặt bà Chí trong đôi quang gánh để di chuyển lên phà, bất ngờ chiếc thúng nơi bà Chi đang nằm bị vướng và rơi tọt xuống sông. “Mẹ bảo hồi đó dòng người ken đặc, chẳng ai biết trong thúng có tôi đang nằm. Chỉ khi mẹ hô hoán và nghe tiếng khóc của tôi, mọi người trên phà mới vớt lên. Vậy là đời tôi đã trải qua 2 lần chết hụt. Và lần thứ 2, dù cái chết cận kề nhưng chuyến đi này đã mở ra cơ hội sống để trở về của tôi sau này” – bà Chí xúc động.
Trong khoảng thời gian từ năm 1967 đến 1973, bà Chí cùng 2 anh chị em của mình sống nương nhờ vào sự đùm bọc, giúp đỡ của người dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Đến khi quê hương hoàn toàn giải phóng, bà trở về nơi chôn nhau cắt rốn và bắt đầu hành trình chinh phục bến bờ tri thức.

Cô Chí và chồng hạnh phúc viên mãn khi các con giờ đều thành đạt.
Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Huế, năm 1992, bà nên duyên chồng vợ với một cán bộ biên phòng ở cùng quê – người cũng nằm trong số hơn 3 vạn học sinh sơ tán. Bà Chí tâm niệm, để có được hạnh phúc viên mãn như ngày hôm nay, lúc nào trong thâm tâm bà cũng bày tỏ lòng biết ơn vô ngần đối với những chiến sĩ, cán bộ đã không tiếc máu xương để làm nên cuộc trường chinh K8.
Bởi lẽ, nếu không có K8, không có cuộc sơ tán lịch sử, nói không chừng bà sẽ không còn hiện diện trên cõi đời cho tới hôm nay. “Tôi vẫn nhắc nhớ 2 con của mình về những năm tháng hào hùng của dân tộc. Và rất mừng là các con đã lấy đó làm động lực và ra sức học tập. Hiện nay, vợ chồng tôi có một cháu đang công tác trong ngành công an, cháu còn lại cũng đang học lên cao học. Còn vợ chồng tôi sau thời gian dài công tác trong ngành sư phạm và quân đội thì cũng đã về hưu và dành phần lớn thời gian tham gia các công tác xã hội tại địa phương” – bà Chí bộc bạch.
Còn với thầy giáo Ý, thời điểm sơ tán ra Nam Định, ông được theo học tại trường cấp 3 Mỹ Tho (huyện Ý Yên). Năm 1973, khi Quảng Trị được giải phóng, thầy Ý về học tiếp tại quê hương. Sau đó, ông thi đậu vào Trường Đại học Vinh ngành sư phạm. Khi đi thực tập, thầy giáo Ý đăng ký thực tập tại một trường gần trường cấp 3 Mỹ Tho để có dịp trở về Yên Nghĩa, Yên Thành – nơi ông coi như quê hương thứ hai của mình.
“Lần đó, tôi ghé nhà thì hay tin ông cụ cưu mang tôi đã mất, chỉ thấy còn mỗi bà đang ngồi gọt khoai. Tôi đến hỏi, bà có nhớ cháu không, cháu là Ý đây? Vừa nghe dứt lời, bà bỏ cả rổ khoai lang, ôm tôi òa khóc và nói rằng, nếu ra sớm một năm thì tôi có cơ hội gặp lại ông rồi…”, thầy Ý nghẹn ngào.
Tốt nghiệp đại học, thầy Ý về quê Vĩnh Linh (Quảng Trị) làm nghề dạy học, lấy vợ. Thầy Ý sinh được hai người con, một trai, một gái.
“Tôi luôn kể cho các con câu chuyện về chiến dịch sơ tán có một không hai trong lịch sử. Từ đó, để các con biết rằng, nếu không có K8, chưa chắc đã có cha của chúng như ngày hôm nay. Để các con biết một thời lịch sử đầy bi hùng… Đó không đơn thuần là một cuộc di dân lịch sử mà còn mang ý nghĩa duy trì nòi giống cho cả một vùng chiến sự đầy ác liệt, cái chết luôn chực chờ…”, thầy Ý nói.
Con gái đầu thầy Ý hiện nối nghiệp cha làm nghề giáo viên ở TP Đông Hà. Khi giảng dạy, con gái thầy Ý thi thoảng cũng kể lại chiến dịch K8 cho các thể hệ học trò, để các em hiểu hơn về một giai đoạn lịch sử đầy ác liệt, qua đó khơi dậy tinh thần yêu nước, tiếp nối truyền thống cha ông…
Năm 2017, thầy Ý nghỉ hưu. Từ đó đến nay, mỗi lần có dịp ra miền Bắc, thầy lại tìm về Yên Nghĩa, với cảm giác như một người con xa xứ trở về. Đến tận bây giờ, ông vẫn luôn giữ liên lạc với gia đình từng cưu mang và đùm bọc mình. Kể cả khi ông bà đã mất, anh em trong gia đình vẫn luôn dặn nhau rằng: “Còn có một người anh, người chú nữa ở Quảng Trị”.