Đã đến lúc làm mới ngành công nghiệp dệt may

Thuế đối ứng 20% áp cho hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam đã có hiệu lực, xuất khẩu hàng dệt may vẫn tiếp tục đà tăng tốc, nhưng theo ông Trương Văn Cẩm, Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), cần phải cơ cấu lại ngành dệt may mới có thể phát triển bền vững.

Ông Trương Văn Cẩm, Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS)

Ông Trương Văn Cẩm, Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS)

Trái với lo lắng ban đầu, xuất khẩu hàng dệt may tiếp tục đà tăng trưởng, dù đã bị Hoa Kỳ áp thuế đối ứng?

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2024 đạt trên 37 tỷ USD, tăng hơn 11% và trong 7 tháng năm nay đạt khoảng 22,6 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2024 (trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm khoảng 40%), như vậy là vẫn giữ được nhịp tăng trưởng.

Với mức thuế đối ứng 20%, Việt Nam không ngại cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên, cũng như ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nói chung, ngành dệt may đang phụ thuộc quá nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong khi đó, với ngành này, chúng ta hoàn toàn có thể làm chủ ở khâu may vá mặc.

Hiện tại, có khoảng 3.000 doanh nghiệp FDI đang đầu tư vào lĩnh vực dệt may, chiếm 64,6% vốn, 61,6% doanh thu và 56,8% lao động. Sự liên kết giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI rất rời rạc, có thể nói là gần như không có, thậm chí có sự cạnh tranh lẫn nhau, nhất là về lao động. Nhiều doanh nghiệp nội địa đang trả lương cho công nhân may mặc 12 - 13 triệu đồng/tháng, nhưng khi cần lao động, doanh nghiệp FDI sẵn sàng trả lương 14-15 triệu đồng để lôi kéo người lao động từ doanh nghiệp nội địa về phía mình.

Doanh nghiệp FDI trả lương cao cho người lao động là điều cần khuyến khích, đây cũng là chủ trương của Đảng và Nhà nước. Vấn đề là họ chỉ tuyển lao động thời vụ, rất ngắn hạn, hết đơn hàng, qua thời vụ, người lao động phải “ra đường”, khiến không chỉ người lao động gặp khó khăn, mà doanh nghiệp nội địa cũng hết sức khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất bình thường.

Thưa ông, ngành dệt may còn gặp vấn đề gì nữa không?

Hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ có thể bị áp thuế lên đến 40%, nếu bị xác định là chuyển tải, gia công hàng nhập khẩu để xuất khẩu, tức là hầu như toàn bộ nguyên phụ liệu đều nhập khẩu, chỉ gia công ở Việt Nam. Muốn làm chủ được ngành dệt may, thì phải làm chủ được nguyên phụ liệu, cụ thể là phải đầu tư vào khâu dệt, nhuộm để sản xuất ra vải.

Vấn đề là, khi doanh nghiệp tìm đến các địa phương đặt vấn đề xây dựng dự án dệt, nhuộm, thì địa phương nào cũng “chối đây đẩy”, vì lý do bảo vệ môi trường. Vì sao chúng ta phải nhập khẩu vải từ Trung Quốc? Vì Trung Quốc có thế mạnh về dệt và nhuộm để tạo ra vải thành phẩm, chẳng lẽ họ không sợ ô nhiễm môi trường?

Trên thực tế, Trung Quốc bảo vệ môi trường rất tốt, nhưng họ vẫn là công xưởng để cung cấp nguyên vật liệu cho toàn cầu, trong đó có nguyên liệu hàng dệt may. Cũng có không ít doanh nghiệp FDI muốn đầu tư vào khâu dệt, nhuộm và cũng như doanh nghiệp nội địa, họ không được nhiều chính quyền địa phương chào đón.

Trong khi đầu tư vào khâu hạ nguồn (may mặc) vẫn có lợi, nhất là xuất khẩu vào các thị trường mà Việt Nam đã tham gia, ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA), thì doanh nghiệp FDI cũng không mặn mà đầu tư vào khâu dệt, nhuộm nếu không có các cơ chế, chính sách ưu đãi. Khi không làm chủ được nguyên liệu, phải nhập khẩu quá nhiều từ một số ít thị trường, hàm lượng giá trị gia tăng sản xuất tại Việt Nam thấp, thì mức thuế suất đối ứng 20% có thể thay đổi.

Trên thực tế, doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI không cạnh tranh hàng may mặc ở thị trường nội địa, cũng như xuất khẩu, nên đáng ra phải hợp tác chặt chẽ với nhau để tăng sức cạnh tranh hàng hóa “Made in Vietnam”. Nhưng vì sao không có sự liên kết, hợp tác?

Nguyên nhân chính là doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực dệt may hoặc có liên quan đến dệt may tại Việt Nam chỉ được là hội viên liên kết hoặc hội viên danh dự của VITAS theo quyết định được Bộ Nội vụ ban hành từ năm 2011. Không được là hội viên chính thức, nên sự hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp FDI và nội địa đương nhiên là lỏng lẻo.

Ngành dệt may đã đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, xã hội, khẳng định vị thế hàng may mặc của Việt Nam trên thị trường thế giới với vị trí thứ 2 hoặc thứ 3, đặc biệt ở những thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, tạo việc làm và thặng dư thương mại. Nhưng nếu vẫn tiếp tục đầu tư ở khâu hạ nguồn là may mặc, thì dư địa cũng cạn dần và bị cạnh tranh khốc liệt từ các cường quốc may mặc khác là Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh...

Trong cuộc cạnh tranh này, Việt Nam càng ở thế yếu hơn khi khó lòng cạnh tranh được với Trung Quốc, vì họ làm chủ được nguyên phụ liệu đầu vào, không thể cạnh tranh bằng nhân công giá rẻ với Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan...

Như vậy, đã đến lúc cần phải làm mới ngành công nghiệp dệt may?

Đúng vậy. Trong ngành dệt may, khó nhất là khâu dệt và nhuộm. Đây là khâu tạo ra nguyên liệu trong nước, tăng tỷ lệ nội địa hóa, nhưng chưa có nhiều doanh nghiệp nội địa làm được, nên cần phải khuyến khích doanh nghiệp FDI. Vì vậy, chính quyền địa phương các cấp cần phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, miễn là đáp ứng được các quy chuẩn, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và cần thay đổi lại các quy định, quy trình về bảo vệ môi trường đối với dự án khởi công mới.

Hiện tại, thủ tục xin cấp phép khá phức tạp, đòi hỏi phải qua nhiều cấp, nhiều cơ quan, ban, ngành, làm kéo dài thời gian và ảnh hưởng đến tốc độ triển khai dự án và khả năng cạnh tranh. Để thực hiện dự án đầu tư mới, doanh nghiệp cần phải có giấy phép đầu tư; đánh giá tác động môi trường; thẩm duyệt và nghiệm thu phòng cháy, chữa cháy; giấy phép xây dựng.

Trong đó, giấy phép đầu tư và giấy phép xây dựng thường yêu cầu phải có kết quả thẩm duyệt phòng cháy, chữa cháy và đánh giá tác động môi trường hoặc giấy phép môi trường. Riêng hồ sơ đánh giá tác động môi trường hoặc giấy phép môi trường cần trải qua quy trình tham vấn ý kiến của các cơ quan, tổ chức địa phương và các cơ quan liên quan khác, khiến thủ tục càng thêm phức tạp và tốn nhiều thời gian.

Thưa ông, doanh nghiệp dệt may nội địa đã “đủ lông, đủ cánh”, không thể mãi là “người làm thuê,” mà trở thành người đi thuê?

Từ trước đến nay, Việt Nam chủ yếu đóng vai trò là bên nhận gia công cho doanh nghiệp nước ngoài, đã đến lúc doanh nghiệp Việt Nam xuất nguyên, phụ liệu ra nước ngoài để thuê gia công. Nhiều doanh nghiệp nội địa đã đủ lớn, rất muốn đặt hàng gia công ở những nước có chi phí nhân công rẻ hơn, nhưng các quy định pháp luật về thuế và hải quan chưa có hướng dẫn cụ thể cho mô hình này, gây lúng túng cho doanh nghiệp trong việc xác định cách thức thực hiện, khai báo và áp dụng các chính sách phù hợp. Vì vậy, cần phải cụ thể hóa và sửa đổi, bổ những quy định bất hợp lý để doanh nghiệp nội địa từ người làm thuê sang làm chủ.

Dệt may là ngành thâm dụng lao động, đã đến lúc ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp nội địa đầu tư ra những nước có nhân công rẻ hơn như Ấn Độ, Myanmar, Pakistan, Bangladesh… để trở thành các tập đoàn toàn cầu, đa dạng hóa rủi ro thị trường và thích ứng với dịch chuyển lao động.

Mạnh Bôn

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/da-den-luc-lam-moi-nganh-cong-nghiep-det-may-d364214.html