Đặc sắc nghệ thuật chế tác đàn tính
Ở bản Hột, xã Mường Đun, huyện Tủa Chùa chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái sinh sống. Trải qua nhiều đời sinh sống và phát triển, người Thái ở bản Hột vẫn lưu giữ, bảo tồn nhiều nét văn hóa truyền thống; một trong số đó là nghệ thuật chế tác tính tẩu.
Tính tẩu hay còn gọi là đàn tính là loại nhạc cụ truyền thống gắn bó không thể tách rời trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Thái, là nền tảng, cái hồn trong lễ hội, hát xướng, giao duyên, kết bạn của đồng bào.
Để có thể làm hoàn chỉnh một cây tính tẩu phải trải qua nhiều công đoạn, đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo cũng như kinh nghiệm của người chế tác.
Ông Lường Văn Phối, nghệ nhân đàn tính bản Hột, xã Mường Đun chia sẻ: Từ bao đời tiếng đàn tính đã ăn sâu vào ký ức, linh hồn mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc Thái. Để có thể làm một cây đàn tính chuẩn từ kích thước, màu sắc, âm điệu thì cần rất nhiều thời gian.
Người chế tác đàn tính chủ yếu là người hiểu, yêu thích và biết đánh đàn tính. Muốn làm ra một chiếc đàn tính chuẩn đòi hỏi không chỉ sự khéo léo, tỉ mỉ trong các công đoạn làm đàn mà còn cần thử dây, nghe âm thanh, chỉnh đàn... thì mới tạo ra chiếc đàn tính chuẩn của đồng bào dân tộc Thái.
Với mỗi thành phần cấu tạo nên cây đàn tính đều cần tỉ mỉ lựa chọn, kết hợp sao cho khi thành phẩm, đánh thử tiếng đàn tính chuẩn nỗi lòng của người chơi đàn, vừa có độ vang, độ trầm bổng khi thì nhẹ nhàng, êm dịu thanh thoát tạo nên các cung bậc khác nhau, bộc lộ được sâu nhất tâm tư tình cảm của người đánh đàn tính tới người nghe.
Đàn tính được chia làm 6 bộ phận chính: Thân đàn, bầu đàn, con ngựa, dây đàn, mặt đàn, chốt dây. Đầu tiên để làm đàn người chế tác sẽ lựa chọn những quả bầu hồ lô già, lấy về cắt bỏ phần trên, bỏ ruột, nạo sạch phần thịt quả để làm bầu đàn. Trong khi phơi, quả bầu đã cắt làm sạch được treo dưới gầm sàn, khô một cách tự nhiên, tránh nắng trực tiếp có thể khiến bầu đàn bị nứt, giòn... ảnh hưởng đến chất lượng khi chế tác.
Đối với phần thân đàn sẽ được người thợ đo bằng nắm tay (9 nắm tay) có chiều dài trung bình 85cm - 1m, tùy thuộc vào sải tay người sử dụng đàn. Gỗ được sử dụng thường là các loại gỗ mang đặc tính nhẹ, dẻo dai và trơn để khi đánh người chơi dễ vuốt. Đây là hai bộ phận lớn cấu tạo nên chiếc đàn tính, thời gian xử lý vật liệu, chờ khô thường kéo dài gần 1 tháng.
Các bộ phận còn lại được chế tạo nhanh hơn. Phần mặt đàn được chế tạo bằng gỗ, cắt mỏng đo vừa mặt của quả bầu; con ngựa được đặt giữa mặt đàn chống các sợi dây của đàn, tạo khoảng cách rung cần thiết khi chơi. Dây đàn sẽ được kéo dọc từ thân đàn qua mặt đàn, được kết nối với các chốt dây. Thông thường đàn tính có 2 - 3 dây; tùy thuộc vào mục đích sử dụng (đệm hát giao duyên hay đệm múa, hát then) mà được người thợ chế tác. Khi chơi để có thể chỉnh âm điệu người chơi sẽ sử dụng các chốt dây bằng gỗ để điều chỉnh độ căng của dây đàn.
Trước kia dây đàn thường được dùng bằng sợi tước từ cây giang, sau đó dây đàn được thay thế bằng tơ tằm se sợi, tới thời điểm hiện tại dây đàn chủ yếu được sử dụng thay thế bằng sợi cước bởi tính tiện lợi, thông dụng.
Trải qua quá trình phát triển, một số vật liệu chế tác đàn tính được thay thế phù hợp hơn, các công đoạn chế tạo cũng có sự góp sức của các thiết bị máy móc hiện đại... Nhưng không vì vậy mà mất đi vị thế, nét đặc trưng truyền thống của cây đàn tính trong cộng đồng dân tộc Thái, bởi mỗi người làm đàn đều là những người cả đời tâm huyết với tiếng đàn.
Nguồn Phú Thọ: https://baophutho.vn/dac-sac-nghe-thuat-che-tac-dan-tinh-219360.htm