Đại biểu đề nghị rút ngắn thời gian hoàn thuế VAT
Đại biểu Tô Ái Vang (Cần Thơ) kiến nghị Chính phủ rút ngắn thời gian hoàn thuế VAT và xem xét miễn thuế VAT tạm thời đối với doanh nghiệp thu mua lúa gạo, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trữ hàng, giúp nông dân hạn chế tác động từ biến động giá sau thu hoạch.
Doanh nghiệp khó xoay vốn vì chậm hoàn thuế VAT, nông sản chịu rào cản kỹ thuật
Đại biểu Tô Ái Vang cho biết, hiện nay Việt Nam đã kết nối thương mại với hơn 60 thị trường khác nhau và đang đàm phán thêm một số hiệp định thương mại tự do (FTA) mới. Các FTA này giúp doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn khi xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh như gạo, tôm, thủy sản, nông sản và hàng công nghiệp nhẹ nhờ được giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thương mại, thuế quan và hạn ngạch, qua đó thúc đẩy trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các bên, mang lại lợi ích kinh tế cho các quốc gia thành viên.

Đại biểu Tô Ái Vang.
Đại biểu dẫn chứng, theo Bộ Công Thương, trong những tháng đầu năm 2025 đã có khoảng 300 vụ việc do nước ngoài điều tra, trong đó nhiều nhất là các vụ chống bán phá giá liên quan đến những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Điều này cho thấy cần tăng cường năng lực đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và phòng ngừa rủi ro thương mại.
Để nông sản Việt Nam xuất khẩu thuận lợi, không bị vướng mắc thủ tục, bà Tô Ái Vang đề nghị Chính phủ cập nhật, tuân thủ nghiêm các quy định quốc tế về chất lượng và an toàn thực phẩm; đẩy mạnh truy xuất nguồn gốc, xúc tiến thương mại và đa dạng hóa thị trường. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương để xử lý kịp thời các rào cản kỹ thuật.
“Thực tế ùn ứ tại cửa khẩu sầu riêng vừa qua cho thấy năng lực kiểm nghiệm, kiểm dịch không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là chìa khóa chiến lược quyết định sự thành bại của xuất khẩu nông sản Việt Nam,” đại biểu nhấn mạnh.
Cùng với đó, bà kiến nghị Chính phủ sớm ban hành cơ chế, chính sách thúc đẩy và tạo sự cân bằng giữa phát triển công nghệ xanh với lợi ích kinh tế. “Nếu không có bước đi phù hợp, trong 10 năm tới, Việt Nam sẽ đứng ở đâu trên bản đồ sản xuất và xuất khẩu nông sản toàn cầu?”, bà đặt vấn đề.
Đại biểu Tô Ái Vang cũng nêu thực tế, các bộ ngành đang khuyến cáo doanh nghiệp lúa gạo tích cực thu mua, tạm trữ để ổn định giá và mở rộng đầu ra xuất khẩu. Tuy nhiên, để thu mua lượng hàng lớn, doanh nghiệp cần nguồn lực tài chính dồi dào, trong khi nhiều đơn vị xuất khẩu đang bị nợ hoàn thuế giá trị gia tăng kéo dài đến 7 tháng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến dòng vốn.
Vì vậy, bà kiến nghị Chính phủ rút ngắn thời gian hoàn thuế và xem xét miễn thuế VAT tạm thời đối với doanh nghiệp thu mua lúa gạo, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trữ hàng, giúp nông dân hạn chế tác động từ biến động giá sau thu hoạch.
Cũng theo đại biểu, nhiều chuyên gia kinh tế nhận định việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài sẽ mở rộng không gian tăng trưởng cho nền kinh tế. Thực tế cho thấy, khi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 1%, năng lực xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng khoảng 0,1% trong ngắn hạn và 0,08% trong dài hạn.
Tuy nhiên, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện vẫn thu hút FDI ở mức khiêm tốn, cả về số lượng dự án lẫn quy mô vốn. Do đó, đại biểu kiến nghị Chính phủ tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng và giao thông, cải thiện môi trường kinh doanh thông qua việc giảm thủ tục hành chính, đồng thời đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển mô hình hợp tác công – tư (PPP), nhằm thu hút nguồn lực cho vùng trọng điểm nông nghiệp này.
Cần luật riêng cho công nghiệp hỗ trợ, tránh mất ưu đãi thuế trong chuỗi cung ứng
Góp ý về phát triển công nghiệp hỗ trợ, đại biểu Nguyễn Duy Minh (Đà Nẵng) nhấn mạnh, đây là mắt xích chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quyết định năng lực tự chủ sản xuất và khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam.

Đại biểu Nguyễn Duy Minh.
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, Việt Nam đã tham gia hơn 17 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, mở ra cơ hội lớn về ưu đãi thuế quan nhưng đồng thời đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về quy tắc xuất xứ và tỷ lệ nội địa hóa. Nếu doanh nghiệp trong nước vẫn phụ thuộc nhiều vào linh kiện nhập khẩu, sản phẩm khó đạt tiêu chí xuất xứ Việt Nam, dẫn tới mất ưu đãi thuế và nguy cơ bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.
Theo đại biểu, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đã khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo là trọng tâm ưu tiên. Đây là cơ sở chính trị vững chắc để doanh nghiệp tư nhân trở thành lực lượng nòng cốt trong chuỗi giá trị sản xuất quốc gia, cùng với khu vực FDI và doanh nghiệp nhà nước hình thành ba trụ cột của nền công nghiệp Việt Nam.
Trong thời gian qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 205 thay thế Nghị định 111/2015, xác định mục tiêu đến năm 2035 tỷ lệ nội địa hóa đạt 50–60%, có ít nhất 3.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đủ năng lực cung ứng cho các tập đoàn FDI, và đóng góp 10% giá trị sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo. Nghị định cũng mở rộng phạm vi phát triển hệ sinh thái sản xuất, chế biến, chế tạo, coi công nghiệp hỗ trợ là trụ cột của nền công nghiệp tự chủ và sáng tạo.
Doanh nghiệp trong nước hoan nghênh việc thành lập Quỹ Công nghiệp hỗ trợ quốc gia, vì đây là lần đầu tiên có cơ chế tài chính dài hạn, lãi suất thấp giúp đầu tư đổi mới công nghệ, tự động hóa và đạt chuẩn quốc tế. Các tập đoàn FDI cũng đánh giá cao chính sách ưu đãi có điều kiện, tạo cơ hội hợp tác sâu hơn với doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, đại biểu cho biết doanh nghiệp còn lo ngại về khả năng tiếp cận quỹ do thủ tục phê duyệt phức tạp. Do đó, cần đảm bảo tiêu chí minh bạch, công bằng và dễ tiếp cận, đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc ràng buộc nội địa hóa và chuyển giao công nghệ là cần thiết, song cần có cơ chế giám sát thực thi cụ thể để tránh hình thức, đảm bảo công nghiệp hỗ trợ phát triển bền vững, bảo vệ lợi ích thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Đại biểu Nguyễn Duy Minh nhấn mạnh, hiện các cơ chế, chính sách về công nghiệp hỗ trợ đang phân tán ở nhiều luật, nghị định khác nhau, thiếu đồng bộ và chưa đủ mạnh. Vì vậy, đề nghị Chính phủ sớm thể chế hóa chủ trương của Đảng, nghiên cứu xây dựng Luật Phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm hình thành khuôn khổ pháp lý thống nhất, ổn định, tạo nền tảng cho doanh nghiệp Việt Nam tự chủ sản xuất và hội nhập bền vững trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Đại biểu cũng đề nghị triển khai thực chất Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ quốc gia ngay trong năm 2026, bảo đảm vốn vay ưu đãi đến đúng doanh nghiệp sản xuất linh kiện, vật liệu, công nghệ chính xác; đồng thời rút ngắn quy trình thủ tục để doanh nghiệp tiếp cận nhanh, hiệu quả, đưa chính sách đi vào thực tiễn.
Hiện nhiều doanh nghiệp trong nước chưa thể tham gia chuỗi cung ứng của FDI do thiếu kỹ sư vật liệu, công nghệ khuôn mẫu, tự động hóa và quản lý sản xuất theo chuẩn quốc tế. Do đó, đại biểu đề xuất ưu tiên vốn từ Quỹ Công nghiệp hỗ trợ quốc gia để hỗ trợ đào tạo, cấp học bổng thực hành tại doanh nghiệp và tăng cường liên kết quốc tế trong đào tạo, chuyển giao công nghệ.
Cuối cùng, đại biểu nhấn mạnh việc thu hút FDI có chọn lọc gắn với cam kết nội địa hóa và chuyển giao công nghệ. Chính phủ cần ban hành cơ chế ưu đãi có điều kiện: Doanh nghiệp FDI đạt tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu 30% sau 5 năm hoặc có lộ trình tăng trưởng nội địa hóa hàng năm sẽ được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, được mở rộng đất, hạ tầng và tiếp cận vốn từ Quỹ Công nghiệp hỗ trợ quốc gia.
Ngược lại, các dự án không thực hiện cam kết sẽ chỉ được hưởng ưu đãi cơ bản, hoặc bị giảm ưu đãi nếu vi phạm.Đồng thời, cho phép doanh nghiệp FDI khấu trừ chi phí chuyển giao công nghệ và đào tạo nhà cung ứng nội địa khi tính thuế, nhằm khuyến khích hợp tác thực chất, góp phần xây dựng nền công nghiệp Việt Nam tự chủ và bền vững.












