Đại học Harvard giàu thế nào?
Đại học Harvard là một trong những trường đại học giàu nhất thế giới. Năm 2009, họ bỗng phát hiện ra rằng hợp đồng hoán đổi lãi suất mà họ đã trót đặt cược thực chất là một cái bẫy lớn.
Từ hoán đổi lãi suất đến "bẫy" lãi suất
Nạn nhân của hoạt động hoán đổi lãi suất không chỉ là chính quyền địa phương, mà còn có các trường học và bệnh viện.
58% kinh phí hoạt động của UMMS (Hệ thống Y tế Đại học Maryland) bắt nguồn từ thuế của cư dân địa phương, nhưng họ đã mắc khoản nợ 180 triệu đôla. Thật không may, họ cũng có những khoản hoán đổi lãi suất với các ngân hàng. Giống như chính quyền thành phố New York, Đại học Maryland đã đặt cược nhầm phe khi quyết định lựa chọn lãi suất thay đổi và rơi vào cái bẫy mang tên “hoán đổi lãi suất”.

Một góc ảnh về ngôi trường nổi tiếng bậc nhất. Ảnh: Appily.com.
Vì tỷ lệ cá cược quá phi lý nên hợp đồng hoán đổi lãi suất đã trở thành một trách nhiệm khổng lồ đối với UMHS, điều này làm lộ ra một vấn đề lớn khác: Hợp đồng hoán đổi lãi suất yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, khi lãi suất liên tục giảm thì giá trị của các hợp đồng “đặt cược” của UMHS cũng bị thu hẹp nhanh chóng, và tài sản thế chấp sẽ không đủ. Với tư cách là “chủ sòng”, ngân hàng đã yêu cầu một khoản thế chấp bổ sung ngay lập tức, kết quả là UMHS buộc phải phong tỏa số tài sản trị giá 93 triệu đôla của mình - một đòn chí mạng đối với một tổ chức có thu nhập hàng năm chỉ 70 triệu đôla.
Phải bù hàng triệu đôla tiền lãi hàng năm đã là quá xui xẻo, giờ đến lượt khối tài sản 93 triệu đôla cũng bị đóng băng thì quả là chẳng còn gì để nói, dòng tiền của UMHS đang đối mặt với thảm họa diệt vong. Vào thời điểm này, các tổ chức xếp hạng bắt đầu chú ý nghiêm túc đến bảng cân đối của UMHS. Một khi tín dụng bị hạ cấp, chi phí tài chính cho UMHS sẽ cao hơn, số lượng tài sản sẽ bị đóng băng sẽ càng nhiều, từ đó sẽ gây ra tình trạng suy giảm dòng tiền nghiêm trọng hơn.
UMHS điều hành mười một bệnh viện ở Maryland và có hơn 5.000 người lao động. Trước sức ép của việc đóng băng tài sản và thiếu hụt dòng tiền, họ buộc phải sa thải hàng loạt nhân viên y tế và cắt giảm các chi phí y tế thông thường. Trong một hệ thống chăm sóc sức khỏe phần lớn phải dựa vào nguồn thuế thu từ cư dân khi bệnh nhân cần tới bác sĩ, y tá, thuốc men và thiết bị y tế; nhưng những khoản tiền quý giá đó lại chui tọt vào túi của các ngân hàng.
UMHS cũng có thể chấm dứt việc hoán đổi lãi suất, nhưng họ sẽ phải bồi thường cho ngân hàng 183 triệu đôla tiền mặt, gần như tương đương với tổng nợ của toàn bộ hệ thống. Hệ thống chăm sóc sức khỏe sẽ không còn cách nào khác để thoát khỏi nanh vuốt của hoán đổi lãi suất ngoài tuyên bố phá sản.
Không chỉ hệ thống y tế của Đại học Maryland rơi vào bẫy, mà cả hệ thống y tế của Đại học Johns Hopkins, và hơn năm trăm bệnh viện các loại khác.
Đại học Maryland rơi thẳng xuống hố sâu của hoán đổi lãi suất. Đại học Hopkins dù thua lỗ còn nghiêm trọng hơn Đại học Maryland, nhưng với “tài lực thâm hậu”, họ vẫn có thể trụ vững qua cơn sóng gió.
Ngạc nhiên nhất là Đại học Harvard, năm 2009, chuỗi vốn của họ gần như bị phá vỡ do thua lỗ trầm trọng từ việc đặt cược vào hoán đổi lãi suất.
Đại học Harvard là một trong những trường đại học giàu nhất thế giới, đang sở hữu 30 tỷ đôla. Năm 2009, họ bỗng phát hiện ra rằng hợp đồng hoán đổi lãi suất mà họ đã trót đặt cược thực chất là một cái bẫy lớn, nhưng nếu chấp nhận “đau ngắn còn hơn đau dài”, kiên quyết trả thẳng 500 triệu đôla để chấm dứt hợp đồng hoán đổi lãi suất, hậu quả sẽ còn nghiêm trọng hơn.
Thực tế, trong một số trường hợp cụ thể, quy mô tổng tài sản không quan trọng mà mấu chốt là dòng tiền. Một khi dòng tiền bị đứt gãy, chủ nợ có thể tống ngay bạn ra tòa và buộc họ phải tuyên bố phá sản. Giám đốc tài chính của Đại học Harvard đã phải rùng mình mỗi khi nghĩ về thương vụ hoán đổi lãi suất: “Khi bước vào mùa thu, chúng tôi phải đối mặt với một số vấn đề rất nghiêm trọng về quản lý thanh khoản, việc đóng băng tài sản thế chấp trong các giao dịch hoán đổi là một trong số đó.”
Hóa ra là vào năm 2005, ôm tham vọng chuẩn bị mở rộng khuôn viên, Đại học Harvard đã phát hành hàng tỷ đôla trái phiếu lãi suất thả nổi. Để hạn chế rủi ro lãi suất, vào ngày 30 tháng 6 năm 2005, họ đã ký một hợp đồng hoán đổi lãi suất trị giá 3,7 tỷ đôla với giới ngân hàng. Chủ tịch Đại học Harvard lúc bấy giờ là Summers, người từng là ứng cử viên nặng ký nhất trong cuộc đua kế nhiệm Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Bernanke.
Thú vị hơn, khi Summers phụ trách Bộ Tài chính Mỹ vào những năm 1990, ông là người đi đầu trong việc ủng hộ việc bãi bỏ Đạo luật Glass-Steagall, cho rằng ranh giới giữa các ngân hàng thương mại và đầu tư đã lỗi thời từ lâu, các công cụ tài chính phái sinh cũng chẳng cần sự giám sát của Chính phủ. Ông tin rằng cứ phó mặc cho thị trường tự điều chỉnh theo quy luật của nó là được.
Hợp đồng hoán đổi lãi suất được ký kết ngay trong nhiệm kỳ của Summers cũng là thủ phạm suýt phá vỡ chuỗi vốn của Harvard. Nếu Summers chấm dứt hợp đồng hoán đổi lãi suất vào cuối năm 2006 - khi ông rời nhiệm sở - thì đã không có khoản lỗ hoán đổi lãi suất khổng lồ lên tới 500 triệu đôla vào năm 2009. Qua sự kiện này, chúng ta có thể thấy rõ mức độ đúng đắn của những phán đoán mà Summers đưa ra về thị trường tài chính.
Nguồn Znews: https://znews.vn/dai-hoc-harvard-giau-the-nao-post1557367.html