Đài phát thanh kháng chiến bên dòng Trà Khúc
80 năm trước, vào ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân dân Nam Bộ đã vùng lên, cầm vũ khí và gậy tầm vông, chiến đấu kiên cường trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Khi những giai điệu hào hùng của bài hát Nam Bộ kháng chiến (nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn) vang lên, nhiều tờ báo trong nước đã lên tiếng ủng hộ cuộc chiến chính nghĩa này. Đến năm 1946, quân Pháp đánh nống ra các tỉnh miền Tây, một kênh phát thanh từ Quảng Ngãi đã vang vọng vào tận miền Nam, kêu gọi và động viên quân dân tiếp tục kiên trì đấu tranh đến cùng...

Nhân dân Nam Bộ biểu tình phản đối quân đội Hoàng gia Anh vào Việt Nam tước vũ khí của lính Nhật, nhưng lại dẫn theo lính Pháp và tấn công trụ sở của Việt Minh. Ảnh: TƯ LIỆU
Từ vùng tự do
Đây là Tiếng nói Nam Bộ, tiếng nói đau đớn, tiếng nói căm hờn, tiếng nói chiến đấu. Ngày 20.7.1946, một chương trình phát thanh đặc biệt được phát vào vùng Nam Bộ. Trạm thu phát sóng đặt tại đình Thọ Lộc, nay thuộc thôn Thọ Lộc Đông, xã Tịnh Hà, tỉnh Quảng Ngãi. Vị trí này nằm bên cạnh dòng sông Trà Khúc. Vì sao trạm thu phát sóng được đặt tại tỉnh Quảng Ngãi? Vì lúc đó Quảng Ngãi đang là vùng tự do của Liên khu V. Trừ chiến khu Việt Bắc, còn phần lớn các vùng miền đều bị quân Pháp gây hấn, tái chiếm trở lại.
Cụ Phạm Thanh Biền, SN 1922, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi từng kể lại một câu chuyện lịch sử tương tự: Ngày 18.6.1940, Trung tá Pháp là Đờ Gôn lưu vong sang Anh, lên Đài phát thanh phát sóng về nước Pháp, kêu gọi nhân dân Pháp chống lại phát xít Đức. Đờ Gôn được cả thế giới ca ngợi là “người hùng”.
Năm 1945, Đờ Gôn giữ chức Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp. Rồi người Việt Nam cũng hy vọng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thuyết phục Đờ Gôn “nếu là một người hùng dân chủ, là người chính nghĩa thì hãy ủng hộ Việt Nam độc lập”. Tuy nhiên, Đờ Gôn đã tuyên bố tái chiếm Đông Dương. Vậy nên ngày 23.9.1945, Pháp nổ súng tấn công Nam Bộ.
Trong hồi ký của nhà cách mạng Nguyễn Văn Nguyễn, Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ lắp đặt xong vào ngày 1.6.1946, tiến hành phát thử nghiệm rồi phát chính thức vào ngày 20.7.1946. Đài sử dụng nhạc hiệu là giai điệu bài Thanh niên hành khúc - một nhạc phẩm nổi tiếng của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, với lời bài hát hùng hồn, ca ngợi tinh thần anh dũng hy sinh vì đất nước: “Tiến lên thanh niên, tiến lên thanh niên/ Dưới cờ Việt Minh quyết chiến đấu hy sinh/ Tiến lên thanh niên, tiến lên thanh niên/ Vì nước, vì dân, xây đắp tương lai”...
Sau nhạc hiệu là giọng đọc của một phát thanh viên Nam Bộ, quê ở tỉnh Trà Vinh, đó là ông Phạm Văn Bạch - thay mặt Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ đọc lời hiệu triệu đồng bào vùng lên chiến đấu chống quân xâm lược, đồng thời tuyên bố về sự ra đời của Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ, truyền đạt các chỉ thị của Chính phủ, bình luận về âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp, kêu gọi tinh thần ái quốc, đoàn kết chống giặc ngoại xâm.
Hiệu triệu đánh Pháp
Trong giai đoạn Nam Bộ kháng chiến, có những tờ báo thường đăng tải lời hiệu triệu toàn dân đánh giặc, nhắc lại lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến của giáo sư Trần Văn Giàu - Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, đó là những tờ: La Voix du Maquis (Tiếng nói Bưng biền), Vì Chúa - Vì Tổ quốc, Tiếng cười kháng chiến, To Song Keem, Kèn gọi lính…
La Voix du Maquis là tờ báo địch vận, phát hành mỗi số 1.000 bản, vì sử dụng tiếng Pháp nên giống như một tờ truyền đơn được cơ sở bí mật chuyển tới tay lính Pháp để lung lạc tinh thần chiến đấu. Nội dung tờ báo còn được chuyển tới Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ để phát sóng mỗi ngày 2 buổi. Phát thanh viên đọc lời là binh sĩ Capenlero, hàng binh người Tây Ban Nha. Khi Pháp trở lại tấn công Nam Bộ, chúng sử dụng nhiều lính đánh thuê Bắc Phi, Tây Ban Nha và cả lính Nhật. Việt Minh đã có chính sách chiêu hàng, dạy tiếng Việt.
Trong tài liệu Nam Bộ kháng chiến do Bộ Quốc phòng và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh phát hành có nội dung đề cập: Đồng chí Huỳnh Văn Tiếng thành lập tờ báo Tiếng vang, thành lập Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ bên cạnh sông Trà Khúc. Số đầu tiên được phát sóng vào ngày 1.6.1946, do đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn làm Giám đốc. Đồng chí Nguyễn sinh ra tại tỉnh Tiền Giang, bút danh Ngũ Yến, từng viết cho tờ Mai, Dân quyền; làm thư ký tòa soạn tờ L’Avant Garde.
Các chương trình của Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ đề cập về tin tức mặt trận, tình hình thế giới, âm nhạc... Thời đó, Liên khu V có những bản nhạc, bài thơ nổi tiếng được phát sóng của các nhạc sĩ Lương Ngọc Trác, Trần Hoàn, Lương Sĩ Cầm; bên cạnh đó là các bài vè về giặc Tây: “Cắc cắc thùng thùng/ Là kiểu anh hùng/ Của phường Pháp tặc/ Đánh Nam dẹp Bắc/ Mà chẳng được chi/ Trở lại chốn ni/ Giở trò tàn bạo…”.
Ngoài Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ đặt máy phát ở Quảng Ngãi, tại các tỉnh phía Nam còn có Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ kháng chiến ở vùng rừng U Minh (gọi là Đài phát thanh ghe lườn, do máy phát sóng phải di chuyển liên tục, nên được đặt trên chiếc ghe lườn, ca bin được quây kín bằng chiếc chăn để giảm nhiễu, làm nơi phát thanh viên đọc lời). Hai cây tầm vông vút lên cao làm trụ gắn ăng ten phát sóng về tình hình chiến sự. Phát thanh viên đọc bản tin bằng nhiều thứ tiếng: Việt, Hoa, Pháp, Khmer.

Di tích Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ tại Quảng Ngãi. Ảnh: LÊ VĂN CHƯƠNG
80 năm trôi qua
Trong cuốn sách Nam Bộ kháng chiến, ý chí bảo vệ độc lập tự do và bài học lịch sử, tinh thần dũng cảm của quân dân Nam Bộ đã được khắc họa rõ nét. Dù chỉ trang bị những vũ khí thô sơ như gậy tầm vông và mã tấu, họ vẫn can trường đối đầu với quân đội Pháp, vốn được trang bị vũ khí hiện đại. Vào thời điểm đó, lực lượng vũ trang vùng tự do phải luôn trong trạng thái cảnh giác cao độ, không cho phép thực dân Pháp tấn công.
Cụ Nguyễn Dõng, sinh năm 1920, quê ở xã An Phú, tỉnh Quảng Ngãi, kể lại: Năm 1945, tuyến đường xuống biển được bố trí nhiều trận địa pháo, nhưng thực chất là những khẩu pháo... làm bằng gỗ để đánh lừa quân địch. Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ lúc đó hoạt động tại một làng quê, chủ yếu vào ban đêm dưới ánh sáng đèn mù u, trong khi các phiên chợ cũng chỉ diễn ra vào buổi tối. Học sinh tại nhiều địa phương cũng phải đi học vào ban đêm.
Đồng tiền lưu hành trong vùng tự do là Tín phiếu in hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt hàng khan hiếm và đắt đỏ nhất là đá lửa. Cách vị trí của Đài khoảng 6 km là Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ, do ông Phạm Văn Đồng, cán bộ Trung ương làm đại diện.
Sau này, Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ di chuyển tới nhiều địa điểm khác nhau, nhưng điểm đầu tiên của Đài đã trở thành một di tích lịch sử quan trọng của nền Báo chí cách mạng Việt Nam. Nơi đây gắn liền với tên tuổi của các nhà báo nổi tiếng đã có mặt bên sông Trà Khúc trong những ngày toàn quốc kháng chiến.
Đó là nhà báo Nguyễn Văn Nguyễn, nguyên Thư ký tòa soạn báo Lvant Garde và cộng tác viên của các báo La Lutte; Nhà báo Huỳnh Văn Tiểng, Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, người tham gia lãnh đạo Đài và phụ trách các chuyên mục Bình luận, Câu chuyện thời sự trong và ngoài nước. Các biên tập viên, phóng viên như Lương Hưng, Trần Châu, Dương Đức Khôi, Nguyễn Văn Giỏi, cùng các phát thanh viên Minh Lý, Cẩm Ba và Tuyết Minh, đều góp phần quan trọng trong sự phát triển của Đài.
Cụ Nguyễn Bảy, sinh năm 1933, người sống gần vị trí đặt Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ, đã kể lại rằng: “Con đường đến Đài thuận tiện nhất là đi bằng ghe trên sông Trà Khúc. Vào thời đó, sông luôn đầy ắp nước, xanh mướt như ngọc bích, hai bên bờ là những lũy tre dày đặc. Cá trên sông rất nhiều, chỉ cần mang nơm, lờ, đó ra đặt một lát là có thể bắt được vô số cá, lươn. Các phóng viên ở Đài không bao giờ thiếu cá trong bữa ăn và khi hết cá thì sẽ là món don, hến - đặc sản của sông Trà Khúc”.
Nguồn Văn hóa: http://baovanhoa.vn/bao-chi/dai-phat-thanh-khang-chien-ben-dong-tra-khuc-165928.html