Dẫn lối tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Lời giải cho bài toán doanh nghiệp nhỏ gặp khó khi vay vốn không chỉ nằm ở phía ngân hàng, mà còn phụ thuộc vào chính doanh nghiệp. Trong khi hệ thống ngân hàng cần linh hoạt hơn trong xét duyệt, phát triển sản phẩm tài chính 'may đo' phù hợp hơn thì doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần chủ động nâng cao năng lực tài chính, minh bạch hóa hoạt động.

Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Ảnh minh họa

Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Ảnh minh họa

Chia sẻ gần đây, ông Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nêu thực tế, hiện nay, các ngân hàng thương mại có xu hướng tập trung cho vay doanh nghiệp lớn, bởi áp lực doanh thu và yêu cầu kiểm soát rủi ro là rất lớn. Chỉ khoảng 30 - 35% doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận vốn vay ngân hàng do hạn chế về tài sản thế chấp.

Doanh nghiệp nhỏ gặp khó khi vay vốn

Trao đổi với phóng viên TBTCVN, ông Trần Đức Hoàn - Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư và sản xuất Thái Hưng (Công ty Thái Hưng), doanh nghiệp chuyên sản xuất và cung cấp các sản phẩm bao bì đóng gói cho các doanh nghiệp FDI cho biết, cuối năm vừa qua, công ty đã hoàn thiện nhà máy mới tại Bắc Ninh nhờ khoản vay từ một ngân hàng quốc doanh lớn.

Cùng liên kết, sát cánh để tiếp cận vốn dễ dàng hơn

"Chúng tôi kêu gọi rất nhiều, DN có thể tổng hợp sơ lược hồ sơ, Hiệp hội sẽ giới thiệu cho các doanh nghiệp, ngân hàng cũng sẽ yên tâm hơn trong việc cấp tín dụng. Chúng ta phải liên kết, sát cánh với nhau, chứ không phải lọ mọ đi vay, bởi khi không đủ điều kiện, ngân hàng khó cho vay. Ngoài kênh vay vốn từ ngân hàng, các DN nhỏ và vừa có thể tận dụng nhiều phương án huy động vốn khác từ các quỹ" - ông Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.

Từ kinh nghiệm vay vốn các ngân hàng, lãnh đạo Công ty Thái Hưng chia sẻ, các ngân hàng rất thận trọng trong việc xét duyệt khoản vay, tập trung tìm kiếm những doanh nghiệp có tiềm lực tốt, khả năng hấp thụ vốn cao và quản lý tài chính minh bạch. Nhiều ngân hàng quốc doanh áp dụng mức lãi suất cho vay thấp hơn so với thị trường nhưng lại rất kén chọn khách hàng, họ chỉ cấp tín dụng ở mức an toàn. Chẳng hạn, với tài sản thế chấp là bất động sản trị giá 20 tỷ đồng, ngân hàng chỉ giải ngân khoảng 14 tỷ đồng, đảm bảo tỷ lệ vay hợp lý và hạn chế rủi ro.

Bên cạnh đó, để thu hút khách hàng, các ngân hàng thường đưa ra các sản phẩm cho vay lãi suất hấp dẫn ban đầu, có thể cố định trong ngắn hạn, sau đó áp dụng biên độ thả nổi hoặc kèm theo các khoản phụ phí khác. "Do đó, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ lưỡng các sản phẩm tín dụng của từng ngân hàng để chọn được đối tác phù hợp, đáng tin cậy, đồng hành lâu dài" - ông Hoàn lưu ý.

Theo ông Hoàn, việc lựa chọn ngân hàng và sản phẩm vay phù hợp phụ thuộc vào nhiều yếu tố nội tại của doanh nghiệp. Thứ nhất, nhu cầu sử dụng vốn. Doanh nghiệp cần xác định rõ mục đích vay để đảm bảo dòng vốn được sử dụng hiệu quả. Thứ hai, hiệu quả sử dụng vốn. "Lãi suất vay không phải lúc nào cũng là yếu tố quyết định. Có những doanh nghiệp dù có lợi nhuận cao vẫn vay thêm để mở rộng, trong khi một số khác dù lãi suất thấp vẫn không vay vì chưa biết cách tận dụng nguồn vốn hiệu quả” - ông Hoàn bày tỏ.

Thứ ba tài sản thế chấp. Việc có tài sản đảm bảo phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các khoản vay với điều kiện tốt hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, thiếu tài sản thế chấp vẫn là trở ngại lớn nhất khiến doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận vốn ngân hàng.

Cũng theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp nhiều hạn chế về tiềm lực tài chính và khả năng cạnh tranh, khiến khả năng tiếp cận vốn từ ngân hàng trở nên khó khăn hơn. Một số ngân hàng áp dụng hình thức cho vay dựa trên tài sản hình thành trong tương lai, song triển khai còn rất hạn chế.

Xem xét cơ chế cho vay linh hoạt hơn

Thời gian qua, ngành ngân hàng triển khai nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ như: điều chỉnh lãi suất, cơ cấu nợ do ảnh hưởng dịch bệnh, thiên tai, đặc biệt ưu tiên, ưu đãi lãi suất khu vực nông nghiệp, nông thôn và hợp tác xã. Tuy nhiên, theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong khi tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đạt hơn 15%, dư nợ tín dụng dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ tăng khoảng 10 - 11%, cho thấy doanh nghiệp nhỏ vẫn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận vốn.

Cũng cần lưu ý, việc cho vay tràn lan mà không kiểm soát rủi ro có thể dẫn đến nợ xấu gia tăng, gây nguy hiểm cho hệ thống ngân hàng. Do đó, các tổ chức tín dụng thường lựa chọn kỹ lưỡng đối tác để hợp tác, thay vì cấp vốn ồ ạt cho các doanh nghiệp đang gặp khó khăn hoặc tiềm ẩn nguy cơ mất thanh khoản.

Để thúc đẩy mạnh hơn tín dụng cho doanh nghiệp quy mô nhỏ, nhiều ý kiến cho rằng, ngân hàng có thể xem xét cơ chế cho vay tín chấp và khuyến khích ngân hàng thương mại linh hoạt hơn trong việc cấp vốn.

Trong trường hợp vay vốn đơn lẻ khó khăn, ông Nguyễn Văn Thân kiến nghị, để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa với các ngân hàng, qua đó, giúp kết nối và tạo dựng niềm tin, giúp nhóm doanh nghiệp này dễ tiếp cận nguồn vốn hơn.

Tuy nhiên, cũng theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, để thực sự nâng cao khả năng tiếp cận vốn, bản thân doanh nghiệp phải chủ động nâng cao năng lực bằng việc ứng dụng khoa học công nghệ và tăng cường liên kết với nhau.

Cùng với đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa cần xây dựng báo cáo tài chính minh bạch, có kiểm toán độc lập để tạo niềm tin với ngân hàng, chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh đồng bộ với các kế hoạch tác nghiệp khác và phương án sử dụng vốn hiệu quả để thuyết phục ngân hàng.

Ở phía ngân hàng, cần xây dựng các gói tín dụng linh hoạt, phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp nhỏ và vừa như: khoản vay tín chấp dựa trên dòng tiền kinh doanh, khoản vay theo hợp đồng đầu ra hoặc khoản vay dựa trên tài sản hình thành từ vốn vay. Ngoài ra, cần mở rộng mô hình đánh giá tín dụng dựa trên dữ liệu giao dịch thực tế của doanh nghiệp thay vì chỉ tập trung vào tài sản đảm bảo.

Gần 7 triệu tỷ đồng cho vay tư nhân, doanh nghiệp nhỏ vẫn gặp khó

Theo Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng dành cho doanh nghiệp tư nhân tại các tổ chức tín dụng đạt gần 7 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 14,7% so với năm 2023 và chiếm 44% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế. Trong đó, có 100 tổ chức tín dụng có dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, với tổng dư nợ đạt 2,74 triệu tỷ đồng, tăng 10,7% và chiếm 17,6% tổng dư nợ.

Hiện còn 208.992 doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn dư nợ tại ngân hàng, cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đang góp phần quan trọng vào việc duy trì sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân có sự phát triển mạnh mẽ, song theo Phó Thống đốc, doanh nghiệp vẫn đối diện nhiều thách thức. Phần lớn doanh nghiệp thuộc nhóm nhỏ và vừa, hạn chế về tiềm lực tài chính, công nghệ, khả năng quản trị và sức cạnh tranh. Đây cũng là rào cản chính khiến doanh nghiệp tư nhân gặp khó trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.

Theo TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam, hiện nay, các chính sách phát triển kinh tế tư nhân vẫn chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp đăng ký chính thức, đặc biệt là các tập đoàn tư nhân lớn. Thời gian tới, cần có những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn đối với các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, doanh nghiệp cỡ vừa, cũng như các hộ kinh doanh cá thể, cơ sở kinh tế phi chính thức. Việc phát triển đồng bộ các chủ thể kinh tế này sẽ có ý nghĩa quan trọng không kém so với việc nâng cao vai trò của các tập đoàn tư nhân lớn, tạo nền tảng vững chắc cho nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững./.

Ánh Tuyết

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/dan-loi-tin-dung-cho-doanh-nghiep-nho-va-vua-173207-173207.html