Đánh thuế thu nhập từ mua bán vàng: sẽ hạn chế đầu cơ?
Chính phủ vừa yêu cầu đưa thu nhập từ mua bán vàng vào diện chịu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) trong dự thảo Luật Thuế TNCN (sửa đổi), nhằm minh bạch hóa thị trường và hạn chế đầu cơ. Tuy nhiên, một số chuyên gia cảnh báo việc áp dụng chính sách này cần hết sức thận trọng.

Mua bán vàng tại cửa hàng trên đường Trần Duy Hưng, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng
Cần phân biệt đầu tư dài hạn và đầu cơ ngắn hạn
Ngày 13/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết 278/NQ-CP tại phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 9. Một trong những điểm đáng chú ý là chỉ đạo Bộ Tài chính phối hợp Ngân hàng Nhà nước bổ sung quy định về TNCN đối với hoạt động mua bán vàng trong dự thảo Luật Thuế TNCN (sửa đổi). Động thái này được kỳ vọng sẽ góp phần minh bạch thị trường vàng, giảm tình trạng đầu cơ và đưa kênh đầu tư vàng tiệm cận hơn với các loại tài sản khác như chứng khoán hay bất động sản. Tuy vậy, chính sách mới cũng làm dấy lên nhiều tranh luận.
Ngay sau khi có định hướng, một số đề xuất ban đầu được đưa ra, trong đó có phương án đánh thuế như chứng khoán, tức mỗi giao dịch bán vàng sẽ bị khấu trừ 1-2% trên giá trị. Tuy nhiên, cách tính này ngay lập tức gây băn khoăn. Ví dụ: nếu mua vàng miếng SJC với giá 133,6 triệu đồng/lượng và bán ra ở mức 131,6 triệu đồng, người dân đã lỗ 2 triệu đồng/lượng do chênh lệch mua - bán. Nếu cộng thêm thuế 1-2% (tương đương 1,3 - 2,6 triệu đồng), tổng chi phí càng nặng nề. TS Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia kinh tế, nhận định: “Đánh thuế trên toàn bộ giá trị giao dịch là không hợp lý. Người dân đã dùng tiền có đóng thuế để mua vàng, sau đó lại phải chịu thêm thuế khi bán ra, chẳng khác nào thuế chồng thuế. Nếu áp thuế, cần đánh vào phần lợi nhuận ròng mới công bằng”.
Ở góc nhìn khác, TS Vũ Đình Ánh cho rằng, việc đưa vàng vào diện chịu thuế TNCN là cần thiết, song không thể áp dụng máy móc. “Phải phân biệt rõ người mua vàng để dự phòng, tích trữ với những người đầu cơ, kinh doanh ngắn hạn. Nếu không, chính sách có thể tạo ra bất công và phản ứng tiêu cực từ người dân” - TS Vũ Đình Ánh nói. Thực tế, thị trường vàng Việt Nam còn thiếu minh bạch, chênh lệch giá trong, ngoài nước lớn, cơ chế báo cáo chưa chặt chẽ. Nếu áp thuế mà không có công cụ giám sát đồng bộ, nguy cơ nảy sinh giao dịch ngầm và trốn thuế là rất cao. Khi đó, mục tiêu minh bạch hóa thị trường có thể phản tác dụng.
Ngược lại, nhiều chuyên gia nhìn nhận chính sách này là bước đi cấp thiết. PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, thu nhập từ vàng cần được đưa vào diện điều tiết thuế TNCN vì 3 lý do. Một là bảo đảm công bằng, chuyển nhượng chứng khoán đã bị khấu trừ 0,1% giá trị, bất động sản 2% giá bán. Nếu vàng không chịu thuế, sẽ tạo ra sự lệch lạc trong phân bổ vốn. Hai là khép khoảng trống, vàng miếng hiện không chịu thuế giá trị gia tăng. Nếu tiếp tục “miễn nhiễm” với TNCN, vàng sẽ trở thành kênh trú ẩn hấp dẫn cho đầu cơ, làm méo mó thị trường. Ba là ổn định tâm lý thị trường, thuế sẽ gửi tín hiệu rõ ràng rằng Nhà nước khuyến khích đầu tư bài bản, hạn chế lướt sóng theo tin đồn. Chính sách phải công bằng, trung lập, đơn giản và khả thi, đồng thời gắn liền với cải cách quản lý vàng: khấu trừ tại nguồn, hóa đơn điện tử, thanh toán không tiền mặt.
Đề xuất 3 phương án kỹ thuật
Để triển khai, các chuyên gia đưa ra 3 phương án. Phương án 1 - Thuế khoán theo giá trị giao dịch: khấu trừ 0,1 - 0,2% trên giá bán, tương tự chứng khoán. Ưu điểm đơn giản, dễ thực hiện; nhược điểm là người bán lỗ vẫn phải nộp. Phương án 2 – Thuế trên lãi ròng (capital gains): Thu nhập chịu thuế = giá bán – (giá mua + chi phí). Thuế suất 10-20% trên lợi nhuận ròng, có tạm khấu trừ nhỏ khi bán. Ưu điểm công bằng, phản ánh đúng hiệu quả đầu tư; nhưng đòi hỏi hệ thống dữ liệu và chứng từ minh bạch. Phương án 3 – Lựa chọn kép: mặc định theo phương án 1; ai có chứng từ đầy đủ có thể chuyển sang phương án 2 để công bằng hơn. Theo PGS.TS Ngô Trí Long, phương án 3 phù hợp nhất vì vừa đơn giản cho đa số, vừa công bằng cho nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Cũng theo PGS.TS Ngô Trí Long, một nguyên tắc quan trọng khác là phân biệt vàng trang sức, mỹ nghệ với vàng miếng/thỏi. Vàng trang sức, mỹ nghệ: Hàng hóa tiêu dùng, tiếp tục chịu thuế giá trị gia tăng, không đánh thuế TNCN cho giao dịch nhỏ lẻ. Còn vàng miếng/thỏi: Được coi là tài sản đầu tư, thuộc diện chịu thuế TNCN. Ngoài ra, để tránh tác động tới tích trữ nhỏ lẻ, có thể đặt ngưỡng miễn thuế. Ví dụ, miễn cho thu nhập ròng dưới 10 triệu đồng/năm hoặc giao dịch dưới 1 lượng vàng/năm. Người giao dịch thường xuyên với doanh số lớn sẽ bị phân loại vào diện “cá nhân kinh doanh”.
Một điểm then chốt để chính sách đi vào cuộc sống là ứng dụng công nghệ và dữ liệu số. Các chuyên gia đề xuất: khấu trừ tại nguồn ngay tại cửa hàng vàng có mã số thuế. Hóa đơn điện tử ghi rõ phần thuế đã khấu trừ. Thanh toán không tiền mặt đối với giao dịch lớn, để tạo dấu vết dữ liệu. Kết nối dữ liệu 3 lớp: điểm bán - cơ quan thuế - Ngân hàng Nhà nước. Nhờ đó, cơ quan quản lý có thể giám sát giao dịch, phát hiện bất thường và ngăn chặn rửa tiền.
Theo khuyến nghị, giai đoạn đầu nên thí điểm tại các đô thị lớn trong 6 - 9 tháng, mời các DN vàng lớn và ngân hàng tham gia “sandbox” dữ liệu. Sau khi đánh giá tác động, chính sách sẽ được hoàn thiện rồi nhân rộng toàn quốc. Song song, cần tuyên truyền rõ ràng để người dân hiểu: thuế không áp cho vàng trang sức hay mua vàng cưới, chỉ áp cho thu nhập từ đầu tư vàng miếng. Đây là biện pháp nhằm minh bạch thị trường chứ không phải đánh nặng vào người tiêu dùng.
Nếu được thiết kế hợp lý, chính sách thuế TNCN đối với giao dịch vàng sẽ trở thành trụ cột quản lý mới: ngăn ngừa đầu cơ, thao túng giá. Bảo đảm công bằng giữa các kênh đầu tư. Góp phần tăng thu ngân sách từ một lĩnh vực lâu nay khó kiểm soát. Tuy nhiên, như nhiều chuyên gia cảnh báo, đây là chính sách nhạy cảm, cần lộ trình phù hợp và hạ tầng giám sát đồng bộ. Chỉ khi thị trường minh bạch và người dân được bảo đảm quyền lợi, thuế TNCN với vàng mới thực sự phát huy hiệu quả.
Việc áp dụng thuế đối với vàng cần tiến hành theo lộ trình. Thông thường, muốn thu thuế, trước tiên phải tạo ra sân chơi công khai, minh bạch, có cơ sở pháp lý vững chắc. Chỉ khi quản lý được dòng tiền ra vào và kiểm soát được các giao dịch minh bạch mới có thể yêu cầu nhà đầu tư thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Giám đốc Khối Kinh doanh tiền tệ - Ngân hàng UOB Việt Nam Đinh Đức Quang