Dấu ấn Chủ tịch Hồ Chí Minh và 12 vị Tổng Bí thư của Đảng qua các thời kỳ
Trong không gian triển lãm '95 năm Cờ Đảng soi đường' do Báo Nhân Dân tổ chức, phân khu 'Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng' không chỉ là nơi tôn vinh các bậc lãnh đạo tối cao, mà còn là một bản hùng ca về lòng trung thành, trí tuệ và sự hy sinh trọn đời vì nhân dân.

Quang cảnh phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng” tại triển lãm “95 năm Cờ Đảng soi đường”.
Là một không gian đặc biệt trong triển lãm “95 năm Cờ Đảng soi đường”, tại đây, công chúng được sống lại những khoảnh khắc lịch sử thiêng liêng qua từng hình ảnh, tư liệu, kỷ vật quý giá. Đây cũng là nơi tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài, người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời tri ân các đồng chí Tổng Bí thư qua các thời kỳ – những người đã kế tục và phát huy sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc.

Khách tham quan tìm hiểu về những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 12 vị Tổng Bí thư của Đảng qua các thời kỳ.
Mỗi hiện vật, mỗi trang tư liệu được giới thiệu, trưng bày đều là minh chứng sinh động cho sự hy sinh, trí tuệ và bản lĩnh lãnh đạo, khẳng định sự kế thừa liên tục, vững chắc trong sự lãnh đạo của Đảng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người mở đường cho dân tộc, người soi sáng cho Đảng
Tại không gian “95 năm Cờ Đảng soi đường”, phần trưng bày về Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như trái tim của cả triển lãm. Hình ảnh Người hiện lên vừa vĩ đại vừa gần gũi, vừa phi thường vừa giản dị.

Di sản lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và dân tộc.
Từ bức ảnh chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng năm 1911, đến những tư liệu về quá trình hoạt động cách mạng ở nhiều nước, từ Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng năm 1930 đến mùa thu lịch sử năm 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tất cả đều được tái hiện bằng hình ảnh, tài liệu, hiện vật sống động.
Người đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự do. Từ thân phận nô lệ, nhân dân Việt Nam đã trở thành chủ nhân của một đất nước độc lập. Từ một dân tộc bị áp bức, Việt Nam đã trở thành biểu tượng cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn là linh hồn của mọi thắng lợi cách mạng. Người để lại cho dân tộc một bản Di chúc thiêng liêng – lời dặn dò cuối cùng đầy nhân văn, khẳng định niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của nhân dân, vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Di sản lớn nhất của Người là tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và dân tộc. Tư tưởng ấy kết tinh từ truyền thống ngàn năm dựng nước và giữ nước, từ tinh hoa văn hóa nhân loại, từ khát vọng cháy bỏng vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Đó là ngọn đuốc soi đường, là sức mạnh tinh thần bất diệt để dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách, vững bước trên con đường cách mạng.
Trong phân khu trưng bày, hình ảnh Bác Hồ giản dị giữa nhân dân, với nụ cười hiền từ, ánh mắt chan chứa tình thương, càng làm cho người tham quan thêm xúc động. Không chỉ là sự tri ân quá khứ, phân khu còn là lời nhắc nhở thế hệ hôm nay: học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người chính là con đường chắc chắn nhất để đất nước ta vững bước tiến lên, để khát vọng Việt Nam hùng cường trở thành hiện thực.
12 Tổng Bí thư của Đảng – bản hùng ca kế tục và phát triển
Song hành cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam còn ghi dấu ấn của 12 đồng chí Tổng Bí thư – những người kế tục, phát huy và phát triển sự nghiệp cách mạng vĩ đại. Mỗi Tổng Bí thư là một dấu mốc, một chặng đường, một phong cách lãnh đạo, nhưng tất cả đều chung một khát vọng: đưa dân tộc đi đến độc lập, tự do, hạnh phúc và phát triển vững bền.
Tổng Bí thư Trần Phú
Tổng Bí thư Trần Phú có bí danh Lý Quý, Anh Năm, sinh ngày 1/5/1904, mất ngày 6/9/1931. Quê quán Hà Tĩnh. Đồng chí là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta, giai đoạn từ 10/1930 đến 4/1931.

Chân dung cố Tổng Bí thư Trần Phú trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Đồng chí Trần Phú là người yêu nước, yêu quê hương, có lòng căm thù giặc sâu sắc. Là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trần Phú đã dự thảo Luận cương chính trị và được Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tháng 10/1930 thông qua. Đây là văn kiện quan trọng của Đảng. Tại hội nghị này, đồng chí Trần Phú cũng đã được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng.
Trên cương vị Tổng Bí thư đầu tiên, đồng chí Trần Phú đã có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đồng chí Trần Phú là người cộng sản mẫu mực, nêu tấm gương kiên cường, bất khuất trước kẻ thù. Đồng chí bị địch bắt ở Sài Gòn ngày 18/4/1931. Thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn nào nhưng không thể khuất phục được đồng chí Trần Phú.
Sống trong nhà tù đế quốc với điều kiện hết sức nghiệt ngã, Trần Phú luôn luôn bình tĩnh, sáng suốt truyền niềm tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng đến các đồng chí cùng bị giam; tổ chức nhiều cuộc đấu tranh vạch mặt chế độ lao tù dã man, vô nhân đạo của kẻ thù, tổ chức những buổi huấn luyện chính trị ngay trong nhà tù của đế quốc Pháp.
Sự tra tấn và đày ải của kẻ thù đã cướp đi Tổng Bí thư Trần Phú vào ngày 6/9/1931, ở độ tuổi 27. Trước lúc hy sinh, Trần Phú nhắn gửi đồng chí, đồng bào lời nói bất hủ: "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: "Là một người rất thông minh, hăng hái và cần cù, đồng chí Trần Phú đã làm được nhiều việc quan trọng cho Đảng". Bài tưởng nhớ đồng chí Trần Phú năm 1932 lưu trữ tại Hồ sơ Quốc tế Cộng sản đã khẳng định: "Sự nghiệp cách mạng, niềm tin và phẩm chất cao đẹp của Tổng Bí thư Trần Phú trong nhà tù đế quốc sẽ mãi mãi là tấm gương bất diệt cho những người cộng sản trên toàn thế giới, đặc biệt là những người cộng sản Đông Dương".
Tổng Bí thư Lê Hồng Phong
Tổng Bí thư Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, còn được biết đến với các tên gọi khác: Vương Nhật Dân, Hải An, Lítvinốp, Trí Bình. Đồng chí Lê Hồng Phong sinh ngày 6/91902 mất ngày 6/9/1942. Quê quán Nghệ An. Đồng chí là Tổng Bí thư giai đoạn từ 3/1935 đến 10/1936.

Chân dung cố Tổng Bí thư Lê Hồng Phong trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Lê Hồng Phong, một trong những học trò đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc, đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố năm 1925, ông được cử sang Trường Hàng không ở Quảng Châu và gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 2/1926. Học giỏi, ông được Chính phủ Quảng Châu và Nguyễn Ái Quốc cử sang Liên Xô học từ tháng 10/1926 đến tháng 12/1927, tốt nghiệp Trường Lý luận quân sự không quân ở Leningrad.
Sau đó, ông theo học Trường Đại học Cộng sản Phương Đông, rồi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô tại đó và tham gia thành lập Ủy ban tổ chức Đảng nhóm Đông Dương. Sau ba năm học, ông tốt nghiệp và đang học nghiên cứu sinh thì tháng 11/1931 được cử về nước tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trở về Việt Nam vào cuối năm 1931, Lê Hồng Phong đã tham gia soạn thảo Chương trình hành động của Đảng, được Quốc tế Cộng sản thông qua. Tháng 7/1933, ông bí mật về Cao Bằng, xây dựng nơi đây thành căn cứ vững mạnh để phát triển phong trào cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của ông, hệ thống cơ quan lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam được khôi phục.
Lê Hồng Phong cũng tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, nơi ông trình bày tham luận về tình hình Đông Dương, chỉ ra những chính sách tàn bạo của thực dân Pháp và chứng minh triển vọng của phong trào cách mạng. Ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản và công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ chính thức.
Tháng 3/1935, Đại hội lần thứ I của Đảng tại Ma Cao đã đề ra các nhiệm vụ quan trọng,và Lê Hồng Phong được bầu làm người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tuy nhiên, tháng 6/1939, ông bị mật thám Pháp bắt tại Sài Gòn và sau đó bị quản thúc ở Nghệ An.
Dù bị quản thúc và điều kiện sống khắc nghiệt, Lê Hồng Phong vẫn viết báo và đấu tranh trên mặt trận chính trị. Năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp gia tăng đàn áp. Ông bị bắt giam và giam tại Khám Lớn Sài Gòn, cuối năm 1940 bị đày ra Côn Đảo. Dù bị tra tấn dã man, ông vẫn kiên định không khai báo.
Trước khi qua đời vào trưa ngày 6/9/1942, Lê Hồng Phong nhắn gửi: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn tin tưởng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng.” Di sản của ông là tấm gương sáng về lòng kiên định và quyết tâm trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
Tổng Bí thư Hà Huy Tập
Tổng Bí thư Hà Huy Tập, còn có các tên gọi khác: Hồng Thế Công, Trí Cường, Sinhichkin. Đồng chí Hà Huy Tập sinh ngày 24/4/1906 mất ngày 28/8/1941). Quê quán Hà Tĩnh. Đồng chí Hà Huy Tập là Tổng Bí thư từ tháng 10/1936 đến 3/1938.

Chân dung cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Năm 1925, đồng chí Hà Huy Tập bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Chính quyền thực dân sớm nhận diện và theo dõi ông. Năm 1926, ông bị trục xuất khỏi Nha Trang, chuyển về Vinh, nơi ông giảng dạy tại trường tiểu học Cao Xuân Dục và tham gia Hội Phục Việt, một tổ chức bí mật của những người yêu nước. Tại đây, ông đã tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh, thu hút hàng nghìn người tham dự.
Sau đó, Hà Huy Tập chuyển đến Sài Gòn, nơi ông dạy học tại trường An Nam học đường và tiếp tục hoạt động cách mạng. Ông tham gia thành lập các chi hội của Hội Hưng Nam, tổ chức huấn luyện chính trị và kêu gọi bãi khóa chống lại chính quyền thực dân. Tuy nhiên, vào tháng 1/1928, ông bị sa thải vì đã kích động học sinh.
Cuối năm 1928, ông được Đảng Tân Việt cử đi Trung Quốc để thương thảo hợp tác với Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Tháng 6/1929, ông được cử học tại Trường đại học Phương Đông ở Moscow nhưng bị bắt và trục xuất sang Bỉ khi trên đường trở về vào tháng 3/1932. Sau đó, ông trở lại Moscow để tiếp tục hoạt động.
Tháng 4/1933, Hà Huy Tập trở về nước qua Trung Quốc, liên lạc với Đảng và đồng chí Lê Hồng Phong, góp phần triệu tập Hội nghị Đảng nhằm khôi phục các tổ chức đảng trong nước. Tại Hội nghị tháng 3/1934, ông được giao nhiệm vụ chỉ đạo công tác tuyên truyền và làm Tổng biên tập Tạp chí Bonsevich, cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngày 17/3/1935, Quốc tế Cộng sản chỉ định ông lãnh đạo Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng. Ngày 26/7/1936, Ban Chỉ huy quyết định cử ông về nước để tổ chức Ban Chấp hành Trung ương. Tại Hội nghị ngày 12/10/1936, ông được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Từ tháng 5/1938 đến tháng 3/1940, ông hai lần bị thực dân Pháp bắt và bị kết án tử hình. Cuối cùng, vào ngày 28/8/1941, ông bị xử bắn tại Hóc Môn, để lại một di sản lớn cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Đồng chí Hà Huy Tập là một tấm gương sáng về lòng yêu nước và sự kiên định trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ còn có các tên gọi khác: Nguyễn Văn Cừu, Anh Năm, Trí Cường. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9/7/1912 mất ngày 28/8/1941. Quê quán Bắc Ninh. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ là Tổng Bí thư từ 3/1938 đến 1/1940.

Chân dung cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo tại làng Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh, sớm thấm nhuần truyền thống văn hóa, yêu nước và cách mạng của quê hương. Năm 1927, khi học tại Trường Bưởi (nay là Trường Chu Văn An, Hà Nội), đồng chí được giác ngộ cách mạng qua báo Thanh niên, tác phẩm Đường Cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc và nhanh chóng tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Từ năm 1937 đến 1938, tại các hội nghị Trung ương, đồng chí được bầu vào Thường vụ và Ban Bí thư. Tháng 3/1938, Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư thứ tư của Đảng, khi chưa đầy 26 tuổi, là Tổng Bí thư trẻ tuổi nhất trong lịch sử.
Trên cương vị Tổng Bí thư, mặc dù chỉ trong 2 năm, đồng chí đã khẳng định tư chất lãnh đạo tài năng, sáng tạo.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Đảng đã kịp thời đề ra đường lối đúng đắn, phát động cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) sục sôi trong cả nước, tạo ra cục diện phát triển mới của cách mạng Việt Nam, tiền đề dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Với tác phẩm “Tự chỉ trích,” đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã nêu tấm gương sáng về tinh thần thẳng thắn, tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Ngày 18/1/1940, Nguyễn Văn Cừ cùng nhiều cán bộ cách mạng bị Pháp bắt. Rạng sáng 28/8/1941, tại Ngã Ba Giồng (Gia Định), đồng chí hiên ngang bước ra pháp trường, kiên quyết xé băng đen bịt mắt và hô lớn: “Cách mạng Đông Dương thành công muôn năm!”. Khi ấy, đồng chí mới 29 tuổi, để lại tấm gương bất khuất, sáng ngời cho các thế hệ Cách mạng Việt Nam.
Tổng Bí thư Trường Chinh
Tổng Bí thư Trường Chinh, tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9/2/1907 mất ngày 30/9/1988. Quê quán Nam Định. Đồng chí Trường Chinh là Tổng Bí thư từ 5/1941 đến 10/1956, từ 7/1986 đến 12/1986.

Chân dung cố Tổng Bí thư Trường Chinh trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Từ năm 1940, trên cương vị Chủ bút báo Giải Phóng, đồng chí được bầu làm Quyền Tổng Bí thư. Đến Hội nghị Trung ương 8, năm 1941 đồng chí chính thức được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 9/3/1945, đồng chí Trường Chinh là người trực tiếp chỉ đạo nhiều quyết sách chiến lược, tiêu biểu là chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và chủ trương Tổng khởi nghĩa, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng năm 1951, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và giữ cương vị Tổng Bí thư cho đến tháng 10/1956.
Đến ngày 14/7/1986, tại Hội nghị đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng, thay đồng chí Lê Duẩn vừa từ trần. Tháng 12/1986, tại Đại hội VI, đồng chí đảm nhận chức vụ Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trên cương vị Tổng Bí thư, với tư duy lý luận sắc sảo, nhạy bén, bám sát thực tiễn, sâu sát tình hình ở địa phương, cơ sở, đồng chí Trường Chinh đã sớm nhận rõ được xu thế của thời đại, thực trạng của đất nước và nguyện vọng của nhân dân, dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, chỉ đạo toàn Đảng “phải đổi mới tư duy, thay đổi cách nghĩ, cách làm, dám thừa nhận và thay đổi những quyết định sai lầm trước đây của chính mình, dám dũng cảm xử lý những việc phức tạp”.
Đồng chí Trường Chinh đặc biệt quan tâm công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh khi cho rằng: “Làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng nhất trong công tác xây dựng Đảng, chỉ có như vậy thì Đảng ta mới đủ sức lãnh đạo cách mạng nước ta trong thời gian tới. Khôi phục, giữ vững và nâng cao tính chiến đấu của Đảng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Công tác cán bộ phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng” .
"Đề cương về Văn hóa Việt Nam” do cố Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo được coi là cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, định hướng cho hoạt động văn hóa, văn nghệ của toàn Đảng, toàn dân, trở thành ngọn đuốc soi đường cho nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
Ngày 30/9/1988, đồng chí Trường Chinh từ trần tại Hà Nội, để lại tấm gương sáng ngời của một nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà tư tưởng lớn, người chiến sĩ cộng sản trung kiên, suốt đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đồng chí vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
Tổng Bí thư Lê Duẩn

Chân dung cố Tổng Bí thư Lê Duẩn trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Tổng Bí thư Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7/4/1907, mất ngày 10/7/1986. Quê quán Quảng Trị. Đồng chí Lê Duẩn là Tổng Bí thư từ năm 1960 đến năm 1986.
Xuất thân từ một gia đình lao động có truyền thống yêu nước, đồng chí Lê Duẩn sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng. Ông còn là người học trò lỗi lạc, người cộng sự đắc lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong lịch sử Ðảng ta, đồng chí Lê Duẩn có thời gian giữ trọng trách Tổng Bí thư dài nhất, 26 năm, kể từ năm 1960 đến 1986.
Suốt 15 năm giữ cương vị Tổng Bí thư (1960-1975), đồng chí Lê Duẩn đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân, toàn quân đánh thắng đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, mở ra thời kỳ dân tộc Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội IV (tháng 12/1976) và Đại hội V (tháng 3/1982), đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư. Trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí cùng Trung ương đề ra và chỉ đạo thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và định hướng phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trên lĩnh vực đối ngoại, đồng chí có đóng góp quan trọng trong việc xây dựng, củng cố tình đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện và hữu nghị anh em giữa Việt Nam với Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa.
Không chỉ vậy, với tầm nhìn xa trong tư duy lãnh đạo, đồng chí Lê Duẩn sớm thực hiện chủ trương “chiêu hiền, đãi sĩ”, tập hợp được đội ngũ trí thức có uy tín lớn, như các luật sư Phạm Ngọc Thuần, Phạm Văn Bạch, Nguyễn Thành Vĩnh, Nguyễn Hữu Thọ… Chính đội ngũ trí thức xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội, đã cảm phục tài năng, nhân cách của Lê Duẩn. Đội ngũ trí thức này không chỉ cống hiến riêng cho Nam Bộ mà còn cung cấp cho Trung ương, bổ sung đội ngũ trí thức từ Pháp về, theo Bác Hồ lên chiến khu, kháng chiến cứu nước.
Trong điếu văn do đồng chí Trường Chinh đọc tại Lễ truy điệu đồng chí Lê Duẩn, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã đánh giá: "Từ cuối những năm 30 cho đến khi qua đời, đồng chí là một người lãnh đạo quan trọng của Ðảng và từ năm 1960, với cương vị là Bí thư thứ nhất rồi Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào sự lãnh đạo của Ðảng, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác", và "cống hiến của đồng chí Lê Duẩn đối với sự nghiệp cách mạng của Ðảng và nhân dân ta thật là to lớn".
Đồng chí Lê Duẩn đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương Sao Vàng, phần thưởng cao quý nhất của Nhà nước, cùng nhiều huân, huy chương của Việt Nam và quốc tế.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc, sinh ngày 1/7/1915, mất ngày 27/4/1998. Quê quán Hưng Yên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh là Tổng Bí thư từ 12/1986 đến 6/1991.

Chân dung cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh gắn bó nhiều với miền nam ruột thịt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cương vị Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã lãnh đạo phong trào cách mạng miền nam trong những năm tháng gay go, ác liệt nhất, để lại dấu ấn sâu đậm với phong trào “Đồng khởi” và cuộc kháng chiến chống Mỹ (1960-1975).
Thắng lợi vĩ đại giải phóng miền nam, thống nhất đất nước là công lao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó có đóng góp to lớn của đồng chí Nguyễn Văn Linh.
Năm 1986, đồng chí Nguyễn Văn Linh được giao trọng trách Tổng Bí thư của Đảng, năm quan trọng đánh dấu mốc nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới.
Theo đó, trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh với bản lĩnh nhạy bén, chủ động và sáng tạo đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua nhiều thử thách, đưa công cuộc đổi mới tiến lên và đạt nhiều thành tựu quan trọng: phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng-an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã từng nói: "Sự nghiệp đổi mới" không phải là phủ nhận tất cả quá khứ mà là sự kế thừa những tinh hoa của quá khứ. Đổi mới đòi hỏi phải có tư duy sáng tạo. Phải có nhận thức đúng và sâu mới làm đúng và có hiệu quả.
Cùng Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã kiên trì thực hiện đường lối Đại hội VI, cụ thể hóa trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, đối nội và đối ngoại. Nhờ đó, đất nước từng bước vượt qua khó khăn: lương thực từ chỗ thiếu ăn đã vươn tới xuất khẩu, hàng tiêu dùng trong nước bớt khan hiếm, giá cả phi mã được kiềm chế, đời sống nhân dân dần được cải thiện.
Ngày 25/6/1992, đồng chí Nguyễn Văn Linh vinh dự được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công trao tặng Huân chương Sao Vàng, phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước.
Trong cuộc đời Cách mạng của mình, đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn giữ trọn phẩm chất cao quý của người cộng sản kiên trung, một lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hy sinh vì lý tưởng cao đẹp của Đảng.
Tổng Bí thư Đỗ Mười
Tổng Bí thư Ðỗ Mười tên khai sinh là Nguyễn Duy Cống, sinh ngày 2/2/1917 mất ngày 1/10/2018. Quê quán Hà Nội. Đồng chí Đỗ Mười là Tổng Bí thư từ 6/1991 đến 12/1997.

Chân dung cố Tổng Bí thư Đỗ Mười trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Tổng Bí thư Đỗ Mười là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, suốt đời tận tụy với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Năm 1936, ở tuổi 19, đồng chí Ðỗ Mười bắt đầu tham gia phong trào Mặt trận Bình dân, mở đầu cho cuộc đời hoạt động cách mạng. Năm 1939, đồng chí được kết nạp vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương (nay là Ðảng Cộng sản Việt Nam).
Cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian truân đã tôi luyện nên bản lĩnh kiên cường của người cộng sản. Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Đỗ Mười giữ nhiều trọng trách ở các địa bàn chiến lược Khu III và Tả ngạn Sông Hồng. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, quân và dân đã lập nhiều chiến công, tiêu biểu là trận tập kích sân bay Cát Bi (Hải Phòng), góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.
Sau ngày hòa bình lập lại, đồng chí Đỗ Mười được phân công giữ nhiều chức vụ lãnh đạo, đứng đầu nhiều cơ quan Bộ, Ngành và Chính phủ. Tháng 6 năm 1991, đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Đỗ Mười cùng Bộ Chính trị đã lãnh đạo giữ vững ổn định chính trị, củng cố lập trường tư tưởng, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Trước yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước, Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ hàng đầu là phá thế bao vây, cấm vận; bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ; chủ động gia nhập ASEAN và mở rộng quan hệ quốc tế.
Quan điểm chỉ đạo của đồng chí Đỗ Mười: "Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới" đã được triển khai bằng những hoạt động tích cực, sôi động trên lĩnh vực ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, đưa lại hiệu quả to lớn cho đất nước.
Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười là người khởi xướng Quy chế dân chủ ở cơ sở và đề xuất việc tôn vinh danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Trong suốt sự nghiệp cách mạng, đồng chí Đỗ Mười tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, luôn nhiệt huyết, kiên định và vững vàng trước mọi thử thách, xứng đáng là một nhà lãnh đạo bản lĩnh, kiên trung.
Với nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, sinh ngày 27/12/1931, mất ngày 7/8/2020. Quê quán Thanh Hóa. Đồng chí Lê Khả Phiêu là Tổng Bí thư từ 12/1997 đến 4/2001.

Chân dung cố Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Gần trọn cuộc đời gắn bó với quân ngũ, đồng chí Lê Khả Phiêu đã vào sinh ra tử từ chiến trường Trị Thiên, Quân khu 9 đến những ngày tháng gian khổ đánh đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ.
Đồng chí từng nói: “Chúng ta là những người lính may mắn còn sống sau chiến tranh, hãy làm tốt những gì có thể làm được để cải thiện cuộc sống cho vợ con và gia đình, làm gương cho làng xóm, xứng đáng với đồng đội đã khuất và bù đắp cho những người đã hy sinh”. Lời nói ấy cho thấy tinh thần người lính Bộ đội Cụ Hồ luôn theo đồng chí Lê Khả Phiêu trên mọi cương vị công tác.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư, khóa VIII (tháng 12/1997), đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương).
Đọc diễn văn tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001), nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã đánh giá: “Đồng chí Lê Khả Phiêu đã có những đóng góp quan trọng trong việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đoàn kết nội bộ, phát huy dân chủ trong sinh hoạt của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, tích cực chống tham nhũng. Đồng chí luôn kiên định lập trường cách mạng, sống giản dị, gần gũi, lắng nghe ý kiến nhân dân”.
Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Lê Khả Phiêu có nhiều đóng góp quan trọng, từng bước đưa đất nước phát triển và nâng cao vị thế Việt Nam.
Với nhiều công lao và thành tích xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng; Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh sinh ngày 11/9/1940. Quê quán Bắc Kạn (cũ). Đồng chí Nông Đức Mạnh là Tổng Bí thư từ 4/2001 đến 1/2011.

Chân dung Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Sinh ra ở vùng quê miền núi phía Bắc, giàu truyền thống cách mạng, đồng chí Nông Đức Mạnh phấn đấu trưởng thành từ cơ sở đến Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Quốc hội các khóa IX, X và Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa IX (2001-2006), khóa X (2006-2011).
Trong 10 năm đảm nhiệm cương vị Tổng Bí thư, với kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí Nông Đức Mạnh đã có những đóng góp tích cực trong việc tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, phát huy trí tuệ tập thể trong lãnh đạo, xây dựng nội bộ Đảng gắn kết, bảo đảm sự ổn định, phát triển.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó phải kể đến những dấu mốc quan trọng như đưa Việt Nam lần đầu tiên đăng cai tổ chức thành công hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 2006 và gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007.
Nhắc đến đồng chí Nông Đức Mạnh, người dân nhớ đến hình ảnh người lãnh đạo có phong cách gần gũi với nhân dân, giữ nguyên tắc, tôn trọng đoàn kết, phát huy trí tuệ tập thể, dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ, truyền đạt kinh nghiệm cho thế hệ sau.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sinh ngày 14/4/1944, mất ngày 19/7/2024. Quê quán Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư từ 1/2011-7/2024.

Chân dung cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Trong 14 năm giữ cương vị cao nhất của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã cùng Ban Chấp hành Trung ương hoạch định và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương chiến lược về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết, kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân, chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa.
Đồng thời, đồng chí đã có nhiều bài viết, phát biểu quan trọng, làm sáng tỏ và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những tác phẩm của ông đã góp phần củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, định hướng cho sự phát triển của đất nước trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, đồng chí đã kiên quyết, kiên trì lãnh đạo cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Ông đã trực tiếp chỉ đạo nhiều vụ án lớn, phức tạp, xử lý nghiêm minh nhiều cán bộ cấp cao, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng là người kiên định với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, đưa đất nước hội nhập sâu rộng vào thế giới, nổi bật là việc nâng tầm quan hệ với nhiều đối tác lớn, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Với những công lao to lớn, đặc biệt xuất sắc cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã được Bộ Chính trị trao tặng Huân chương Sao Vàng ngày 18/7/2024.
Tổng Bí thư Tô Lâm
Tổng Bí thư Tô Lâm sinh ngày 10/7/1957. Quê quán Hưng Yên. Là Tổng Bí thư từ tháng 8/2024 đến nay.

Chân dung Tổng Bí thư Tô Lâm trưng bày tại phân khu “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng”.
Tổng Bí thư Tô Lâm trưởng thành từ lực lượng Công an nhân dân. Trên cương vị Bộ trưởng Công an, đồng chí đã chỉ đạo sắp xếp lại tổ chức bộ máy của Bộ Công an theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
Đặc biệt, việc điều động hàng chục nghìn cán bộ công an chính quy về công tác tại cấp xã đã giúp lực lượng công an gần dân hơn, nắm bắt tình hình và giải quyết các vấn đề an ninh, trật tự từ cơ sở.
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã chỉ đạo thực hiện những cải cách đột phá về thủ tục hành chính, đặc biệt là việc triển khai căn cước công dân gắn chip và định danh điện tử (VNeID), tạo nhiều tiện ích cho người dân và góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Tô Lâm chỉ đạo triển khai nhiều quyết sách cải cách thể chế và kỷ cương mang tính bước ngoặt lịch sử, có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Đặc biệt, việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, xây dựng chính quyền 2 cấp, sắp xếp lại đơn vị hành chính, lãnh thổ rút gọn từ 63 tỉnh, thành phố còn 34 tỉnh, thành phố đang từng bước phát huy hiệu quả.
Đồng thời, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ đạo ban hành “Bộ tứ trụ cột” Nghị quyết, tạo động lực mạnh mẽ đưa Việt Nam tiến lên trong kỷ nguyên mới.
Bên cạnh đó, với cương vị cao nhất của Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm thực hiện nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng, khẳng định chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam. Những chuyến thăm, tiếp xúc cấp cao đã góp phần củng cố quan hệ với các quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Dưới sự dẫn dắt của Tổng Bí thư Tô Lâm, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tiếp tục được thực hiện mạnh mẽ trên tinh thần “không ngừng, không nghỉ”, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực, lãng phí nghiêm trọng, nhiều cán bộ suy thoái về phẩm chất, đạo đức lối sống, vi phạm pháp luật tiếp tục bị xử lý, tăng cường củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
Cùng với đó, nhiều vấn đề an sinh, xã hội đã được Tổng Bí thư Tô Lâm quan tâm chỉ đạo, giải quyết, xóa bỏ tình trạng “ban hành rồi để đấy”, đưa nghị quyết chính sách thiết thực vào cuộc sống để người dân có thể cảm nhận và thụ hưởng.
Có thể kể đến một số lĩnh vực như giáo dục với quyết định miễn học phí cho học sinh, thúc đẩy tiến tới phổ cập giáo dục phổ thông, lĩnh vực y tế với chủ trương khám định kỳ cho nhân dân ít nhất mỗi năm một lần, tiến tới miễn viện phí toàn dân vào năm 2030-2035, kiên quyết đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và sức khỏe của nhân dân…
Có thể thấy, 12 Tổng Bí thư của Đảng là 12 dấu son, là bản hùng ca kế tục và phát triển. Họ khác nhau về thời đại, hoàn cảnh, phong cách, nhưng đều giống nhau ở điểm chung: trung thành tuyệt đối với lý tưởng cộng sản, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, hết lòng vì nhân dân.
Phân khu trưng bày “Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng” đã làm sống dậy cả một dòng chảy lịch sử ấy. Mỗi chân dung Tổng Bí thư là một mảnh ghép trong bức tranh lớn của cách mạng Việt Nam. Cả 12 mảnh ghép, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh: Đảng ta là trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, vì dân, vì nước, dẫn dắt dân tộc ta đi đến thắng lợi.