Dấu ấn một thời lửa đạn
Một trong những tiểu thuyết gây chú ý với bạn đọc là tiểu thuyết 'Đi qua chiến tranh' của Vũ Bình Lục (Nhà xuất bản Văn học, 2025). Tác giả vốn là một người lính, từng trải qua chiến tranh nên nhiều trang viết vẫn có 'mùi súng đạn'.
Sinh năm 1948, học xong cấp 3 (cũ), năm 1967, Vũ Bình Lục nhập ngũ, rồi hành quân vào chiến trường. Ngay sau trận đánh đầu tiên, anh được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú”. Trải qua một năm chiến đấu, anh được kết nạp Đảng đợt chiến dịch Mậu Thân 1968, với chức vụ Tiểu đội trưởng. Gắn bó với địa bàn Quân khu 5 gian nan và anh dũng, anh được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba.
Là thương binh 1/4, năm 1971, anh phục viên về học Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, sau đó vừa đi dạy phổ thông, vừa viết văn. Ngoài nghiên cứu về văn học trung đại, anh còn sáng tác về đề tài chiến tranh ở nhiều thể loại, rất đáng chú ý. “Đi qua chiến tranh” tạo được dư luận tốt về tính trung thực của sự kiện, sự kết hợp đa phong cách: Triết lý day dứt; văn xuôi bề bộn; trữ tình, mềm mại...

Bìa cuốn tiểu thuyết “Đi qua chiến tranh”.
Nhân vật là người kể xưng “tôi” đi suốt gần 500 trang sách, cùng cách đặt tên các địa danh, các nhân vật trùng khít với thực tế ngoài đời, tạo cho tác phẩm có tính tự truyện rất rõ. Nhưng tác giả vẫn ghi tên thể loại là tiểu thuyết, như muốn nói một ý: Chưa cần nghệ thuật hư cấu, tưởng tượng, chỉ cần ghi chép sinh động về cái thời chiến tranh vệ quốc anh hùng. Có thể đúng với quan niệm này mà kết cấu tác phẩm đi theo các sự kiện lớn, tiêu biểu có tình huống, có nhân vật, có cao trào, “thắt nút”, “cởi nút” để chúng tự bật ra các ý nghĩa cơ bản.
Ở phần mở đầu, trong chương “Lên đường nhập ngũ”, bằng lối kể xen kẽ các cảnh, đoạn của điện ảnh, tiểu thuyết tái hiện hậu phương miền Bắc (cụ thể là xã Thụy Duyên, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình ngày ấy) có một không khí sôi nổi của ngày hội lên đường đánh giặc. Đúng như câu thơ của Chính Hữu: “Xóm dưới làng trên, con trai con gái/ Xôi nắm cơm đùm, ríu rít theo nhau” (Đường ra mặt trận). Có biết bao bà mẹ đóng góp tài sản quý giá nhất, điểm tựa của đời mình là đứa con cho Tổ quốc.
Bao chiến sĩ rất trẻ, tương lai đầy hứa hẹn, tự nguyện đem tuổi xuân cống hiến cho đất nước nở hoa độc lập. Rất nhiều người ngã xuống, máu họ đã tô thêm sắc màu chiến công trên lá cờ Tổ quốc. Trong đó có tác giả từng đổ máu trong một trận đánh. Nhưng tất cả đều lạc quan, chung một ý chí, son sắt một niềm tin, chứa chan niềm hy vọng: Đất nước hòa bình. Điều ấy góp phần lý giải chúng ta thắng một cường quốc xâm lược hung bạo nhờ tinh thần, ý chí, cao hơn cả là tình yêu nước thực sự thiêng liêng.
Trong vai người trong cuộc kể lại, những chi tiết về chiến tranh rất chọn lọc, tiêu biểu nhưng đậm dấu ấn chủ thể, rất riêng. Như về tư thế bắn của lính Mỹ, khi quỳ hay nằm đều rất bài bản nhưng cứng nhắc. Bên ta, không chỉ là những chiến thắng, còn là sự thật về cái đói quay quắt, về những hy sinh, tổn thất, về những sai lầm của cấp trên do nóng vội... Nếu văn xuôi thuyết phục người đọc bằng chi tiết thì một điểm mạnh của tiểu thuyết này là có nhiều chi tiết đời sống đắt giá.
Trong chiến tranh, con người càng có nhu cầu gắn kết tình người, gắn nối sự sống. Nhưng với những con người cùng lý tưởng, trong lằn ranh sinh tử, tình nghĩa càng sáng đẹp lên bội phần. Ra khỏi chiến tranh, họ lại đi tìm nhau, người còn sống, dù thương tật, đi tìm người đã chết. Cảm động. Thiêng liêng. Thấm thía.
Con thuyền “Đi qua chiến tranh” trôi giữa hai bờ văn xuôi-hiện thực và trữ tình-thơ, cập bến nơi miền tiếp nhận bạn đọc, được chào đón bằng niềm cảm phục, kính trọng, bằng những lắng đọng, suy tư... Có những cảnh được miêu tả từ góc nhìn của thơ, hiện ra đẹp và tinh tế. Lời đề từ tiểu thuyết là một bài thơ tên “Đất nước”: “Một ngày chiến tranh/ Dài hơn thế kỷ/ Trai tráng đi rồi/ Cỏ dại cũng vọng phu”. Câu cuối ám ảnh. Ngày ấy, bao nhiêu người thăm thẳm, đau đáu “vọng phu” để có tươi mới, rực rỡ hòa bình hôm nay.
Nguồn Lạng Sơn: https://baolangson.vn/dau-an-mot-thoi-lua-dan-5061761.html