Dấu ấn ngôi đình xưa ở TP. Mỹ Tho
Đình An Đức Đông, tọa lạc tại xã Trung An, TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang không chỉ là nơi thờ tự mang đậm nét tín ngưỡng dân gian, mà đình còn gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử; đặc biệt trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trải qua bao thăng trầm, đình An Đức Đông vẫn giữ được nét cổ kính, trở thành biểu tượng của tinh thần đoàn kết và truyền thống văn hóa lâu đời của người dân địa phương.
CHỨNG NHÂN LỊCH SỬ
Theo sử liệu ghi chép, làng An Đức Đông được thành lập vào đầu thế kỷ XIX dưới triều Vua Minh Mạng, nhà Nguyễn, khi ấy có tên là thôn An Đức Đông. Đến thời Vua Thiệu Trị, người dân trong làng đã xây dựng đình để thờ Thành hoàng cùng các vị thần linh được tôn kính; đồng thời, đặt tên đình theo tên làng. Kể từ đó, đình An Đức Đông được hình thành và tồn tại cho đến ngày nay. Dưới triều Vua Tự Đức, đình An Đức Đông được ban tặng hai đạo sắc phong.

Ngôi đình An Đức Đông là một chứng nhân lịch sử, gắn liền với những giai đoạn đấu tranh hào hùng của dân tộc.
Đình An Đức Đông không chỉ là nơi thờ tự, sinh hoạt tín ngưỡng của người dân địa phương, trong 2 cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập của dân tộc, đình còn ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Nơi đây từng là điểm hội họp của các sĩ phu yêu nước và chiến sĩ cách mạng, góp phần hun đúc tinh thần đấu tranh chống thực dân, đế quốc. Cuối thập niên 1920, nơi đây trở thành điểm hội họp của nhiều chí sĩ yêu nước từ các vùng lân cận như: Tam Hiệp, chợ Giữa, Xoài Hột, Long Hưng (huyện Châu Thành), cùng những nhà hoạt động cách mạng địa phương để trao đổi, bàn bạc việc nước.
Đầu năm 1931, nhân kỷ niệm 1 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, tại đình An Đức Đông, các chiến sĩ cách mạng của ta đã tập hợp quần chúng để tuyên truyền Cương lĩnh của Đảng, khơi dậy tinh thần yêu nước trong nhân dân. Cũng tại đây, suốt một tuần liền, lá cờ đỏ búa liềm tung bay phấp phới trên ngọn dương trước đình, thể hiện tinh thần quật cường, khí thế đấu tranh mạnh mẽ của phong trào cách mạng.
Trước khí thế ấy, đám tề làng không dám kéo cờ xuống cho đến khi lính quận càn đến, lá cờ mới bị bọn chúng hạ xuống. Sự kiện này đã gây tiếng vang lớn, khích lệ tinh thần yêu nước và thôi thúc phong trào đấu tranh yêu nước ngày càng lan rộng. Trong thời điểm sục sôi ấy, hai ông Năm Cầm và Bảy Cầm đóng vai trò nòng cốt, góp phần đưa phong trào cách mạng của địa phương càng ngày lớn mạnh.
Với bề dày lịch sử và giá trị văn hóa đặc sắc, đình An Đức Đông không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, mà còn là một chứng nhân lịch sử, gắn liền với những giai đoạn đấu tranh hào hùng của dân tộc. Ngày nay, giữa nhịp sống hiện đại, ngôi đình vẫn sừng sững như một biểu tượng của tinh thần đoàn kết và truyền thống văn hóa Nam bộ. Việc bảo tồn và phát huy giá trị của đình không chỉ là trách nhiệm của thế hệ hôm nay, mà còn là cách để thế hệ mai sau hiểu hơn về cội nguồn, tiếp nối và giữ gìn những di sản quý báu mà cha ông để lại.
Năm 1940, cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ bùng nổ khắp nơi, trong đó có làng Long Hưng. Nhân dân và lực lượng cách mạng đã tấn công nhiều đồn bốt, trụ sở chính quyền thực dân. Tại đình làng, các cán bộ cách mạng tập hợp quần chúng, dựng cờ đỏ búa liềm, sau đó kéo về làng Trung Lương, tập trung trước chùa Ông để thị uy, thể hiện khí thế. Đoàn biểu tình tiếp tục tiến đến miễu Cây Vông trước khi giải tán. Trước sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù, ông Bảy Cầm đưa gia đình lánh nạn xuống Phụng Hiệp (Cần Thơ), trong khi ông Năm Cầm ẩn náu trong làng, chờ thời cơ để hoạt động cách mạng.
Năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Sự kiện này được xem là thời cơ cho cách mạng Việt Nam. Từ đây, phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam đã diễn ra mạnh mẽ, đặt nền móng cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 sau đó. Lúc bấy giờ, qua phân tích, đánh giá tình hình, thời cơ cách mạng, ông Năm Cầm đã tổ chức họp quần chúng tại nhà riêng và đình An Đức Đông để bàn kế sách cứu nước. Thời điểm này, đình trở thành nơi huấn luyện võ thuật cho lực lượng Thanh niên Tiền phong trong xã, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Sau thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đình An Đức Đông được sử dụng làm nơi hội họp và tổ chức các lớp học bình dân cho nhân dân trong xã. Ngày 23-9-1945, Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam bộ đã anh dũng đứng lên kháng chiến, thà hy sinh chứ nhất quyết không chịu làm nô lệ. Tháng 10-1945, khi thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm Mỹ Tho, đình An Đức Đông trở thành trung tâm kháng chiến của xã Trung An.

Đầu năm 1946, Tỉnh ủy Mỹ Tho và Huyện ủy Châu Thành cử một nhóm cán bộ do đồng chí Nguyễn Hữu Tín (Bảy Thường) làm trưởng nhóm, cùng các đồng chí Nguyễn Minh Giác (Hai Giác), Nguyễn Trừng Thanh (Hai Lương), Nguyễn Văn Diệp về đây hoạt động. Đình An Đức Đông trở thành địa điểm hội họp quan trọng, nơi diễn ra nhiều sự kiện như đại hội thành lập các tổ chức: Nông dân, Phụ nữ, Thanh niên và Mặt trận Việt Minh. Trong năm 1946, 1947, đình là trụ sở của Ủy ban Hành chính Kháng chiến và Mặt trận Việt Minh xã. Tết Nguyên đán năm 1947, hơn 300 người dân trong xã tập trung tại đình để dự mít tinh, làm lễ mừng xuân và lắng nghe phổ biến lệnh kháng chiến toàn quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau đó, đoàn người tổ chức biểu tình thị uy.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, vì ở gần đồn bót giặc nên chúng thường xuyên ruồng bố càn quét, bắn phá. Dù bị địch đàn áp khốc liệt, đình vẫn là điểm hẹn và hội họp bí mật của các lực lượng cách mạng.
KIẾN TRÚC CỦA NGÔI ĐÌNH
Có thể thấy, trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử, với bề dày lịch sử, đình An Đức Đông không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa của nhân dân, mà còn là chứng nhân của những giai đoạn đấu tranh giành độc lập hào hùng của dân tộc, là biểu tượng của tinh thần yêu nước và lòng kiên trung của nhân dân trong suốt hành trình giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc. Với lòng thành kính và tinh thần gìn giữ truyền thống, chính quyền và nhân dân đã chung tay phục dựng lại đình để làm nơi thờ cúng các vị thần linh và Thành Hoàng làng. Ghi nhận giá trị lịch sử và ý nghĩa cách mạng của di tích, vào tháng 12-2009, UBND tỉnh Tiền Giang đã công nhận đình An Đức Đông là Di tích lịch sử cách mạng.
Đình An Đức Đông là một trong những công trình mang đậm nét kiến trúc truyền thống của đình làng Nam bộ xưa, thể hiện rõ tinh thần gắn kết cộng đồng và tín ngưỡng dân gian qua từng đường nét xây dựng. Đình được chia thành ba phần chính: Vỏ ca, vỏ quy và chánh điện, mỗi khu vực đều có chức năng riêng biệt nhưng kết nối chặt chẽ trong không gian tổng thể.
Vỏ ca là nơi diễn ra các buổi hát bội vào những dịp cúng đình, thể hiện sự kết hợp giữa tín ngưỡng và nghệ thuật dân gian. Vỏ ca được xây dựng theo kiểu tứ trụ, mái hình bánh ú lợp bằng fibrô xi măng. Điểm nhấn của vỏ ca là 4 cột cái được đúc bằng bê tông vững chãi, kết hợp với các cột hiên vuông, tạo nên không gian mở thoáng đãng. Trên 4 cột cái có hai đôi câu đối mang ý nghĩa cầu chúc sự bình an và thịnh vượng cho dân làng:
Chúc vạn thọ mong ân thánh đức
Niệm thần ân vật táng dân khang.
Hiển thiên thu vĩnh hộ lê dân
Ngưỡng thánh đức ân phò cảm ứng.
Những câu đối này không chỉ làm tăng thêm vẻ trang nghiêm cho không gian mà còn phản ánh sự tôn kính của người dân đối với thần linh.
Vỏ quy đóng vai trò là cầu nối giữa vỏ ca và chánh điện. Vỏ quy có hệ thống cột bê tông, mái lợp fibrô xi măng, là nơi để người dân chuẩn bị trước khi bước vào khu vực chính để thực hiện nghi lễ cúng bái. Với thiết kế giản dị nhưng mang tính kết nối, vỏ quy tạo nên sự liên kết hài hòa trong tổng thể kiến trúc đình làng.
Chánh điện, còn gọi là chánh tẩm, là khu vực quan trọng nhất, nơi thờ thần Thành Hoàng của đình. Được xây dựng theo kiểu tứ trụ, mái bánh ú lợp fibrô xi măng, chánh điện mang nét uy nghiêm, linh thiêng. Trên 4 cột cái của chánh điện, nghệ nhân đã đắp nổi bốn con rồng bằng xi măng, biểu trưng cho sự linh thiêng, vững chắc và uy nghi của thần linh.
Nguồn Ấp Bắc: http://baoapbac.vn/van-hoa-nghe-thuat/202503/dau-an-ngoi-dinh-xua-o-tp-my-tho-1035976/