Dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1: Bước tiến mạnh, nhưng cần đầu tư đồng bộ
Chủ trương dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 được đánh giá là chủ trương đúng đắn, tuy nhiên cần đồng bộ về giáo viên, chương trình, môi trường học nếu muốn đạt hiệu quả thực chất.
Ngày 28-10, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 2371/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045”. Trong đó có nội dung, đối với bậc tiểu học, Bộ GD&ĐT đề nghị triển khai dạy học môn tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 của chương trình giáo dục phổ thông (hiện tại đang bắt buộc từ lớp 3).

Chủ trương dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 nhận được sự quan tâm và ủng hộ rộng rãi của phụ huynh học sinh trên cả nước. Ảnh minh họa: NGUYỄN QUYÊN
Chủ trương này nhận được sự quan tâm và ủng hộ rộng rãi của phụ huynh học sinh trên cả nước. Nhiều ý kiến cho rằng đây là một bước tiến mạnh mẽ, thể hiện tư duy đổi mới và hội nhập của ngành giáo dục Việt Nam, song cũng đặt ra yêu cầu rất lớn về sự chuẩn bị đồng bộ, bền vững nếu muốn đạt hiệu quả thực chất.
Nền tảng cho khả năng giao tiếp và học tập quốc tế
Trao đổi với phóng viên, chị Nguyễn Minh Hạnh (phường Gia Định, TP.HCM) đồng tình: “Ở độ tuổi lớp 1, các con tiếp thu ngôn ngữ tự nhiên và nhanh hơn rất nhiều. Nếu được học đúng cách, học sinh Việt Nam sẽ có phản xạ nghe nói tốt, tạo nền tảng cho khả năng giao tiếp và học tập quốc tế sau này”.
Cần 20 năm...
Thời gian thực hiện của Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học" là 20 năm, từ 2025 đến 2045, được triển khai với ba giai đoạn chính.
Giai đoạn 1 (2025-2030) là xây dựng nền tảng và chuẩn hóa: Bảo đảm nền tảng vững chắc để tiếng Anh được sử dụng thường xuyên và có hệ thống trong môi trường giáo dục.
Giai đoạn 2 (2030-2035) là mở rộng và tăng cường: Đẩy mạnh việc sử dụng tiếng Anh một cách thường xuyên hơn.
Giai đoạn 3 (2035-2045) là hoàn thiện và nâng cao: Tiếng Anh được sử dụng một cách tự nhiên, phát triển hệ sinh thái sử dụng tiếng Anh trong môi trường giáo dục, giao tiếp và quản trị nhà trường.
Theo ước tính của Bộ GD-ĐT, đề án sẽ tác động đến khoảng 50.000 cơ sở giáo dục với gần 30 triệu trẻ em, học sinh, sinh viên và khoảng 1 triệu cán bộ quản lý, giáo viên ở tất cả các cấp học, ngành học, ngành đào tạo.
Theo chị Hạnh, trong bối cảnh công nghệ, khoa học và kinh tế phát triển toàn cầu, việc thông thạo tiếng Anh không chỉ là kỹ năng mà còn là yếu tố cần thiết để cạnh tranh và hội nhập.
Về phía gia đình, phụ huynh không nhất thiết phải giỏi tiếng Anh, nhưng có thể tạo điều kiện cho con tiếp xúc qua phim ảnh, âm nhạc, và quan trọng nhất là không tạo áp lực điểm số. "Hãy để con thấy tiếng Anh là một niềm vui" - chị Hạnh nói.
Anh Trần Quốc Dũng (phường Hải Châu, Đà Nẵng) cũng bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ: “Tôi rất hoan nghênh quyết tâm của Chính phủ, nhưng điều người dân mong muốn là ‘học thật, nói được thật’. Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai nghĩa là phải tạo ra môi trường cho các con thực hành, giao tiếp và sử dụng thường xuyên”.
Đầu tư vào chất lượng giáo viên và chương trình học
Sự trăn trở của anh Trần Quốc Dũng là hoàn toàn có cơ sở và cũng là nỗi lo chung của nhiều phụ huynh.
Nhiều người cho rằng thách thức lớn nhất khi triển khai chương trình tiếng Anh phổ thông, đặc biệt là từ lớp 1, không nằm ở việc thiết kế sách giáo khoa hay thời lượng, mà nằm ở khâu thực thi đồng bộ và chất lượng giáo viên.
Theo chị Nguyễn Thị Mỹ Linh (phường Tân Bình, TP.HCM), để chủ trương đi vào thực tế, việc chuẩn bị đội ngũ giáo viên là yếu tố then chốt.
“Cần có chương trình đào tạo và bồi dưỡng lại cho giáo viên tiếng Anh tiểu học. Nhiều thầy cô hiện nay vẫn dạy theo lối ngữ pháp - dịch, chưa khơi dậy được kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Ngoài ra, nên có chính sách thu hút giáo viên giỏi về các vùng khó khăn để tránh khoảng cách chất lượng giữa thành thị và nông thôn” - chị Linh nói.
Chị Lê Thị Thanh (xã Hương Khê, Hà Tĩnh) cũng cho rằng thách thức lớn nhất nằm ở cơ sở vật chất và nguồn lực con người.
“Chủ trương rất đúng, nhưng điều đáng lo là nhiều trường vùng nông thôn chưa có đủ giáo viên tiếng Anh đạt chuẩn. Cơ sở vật chất, phòng học, học liệu cũng còn hạn chế. Nếu chỉ quy định ‘100% trường phải dạy’ mà không có giải pháp hỗ trợ đồng bộ, thì việc triển khai dễ rơi vào hình thức” - chị Thanh chia sẻ
Tương tự, anh Phạm Hoài Nam (phường Bình Thạnh, TP.HCM) nhấn mạnh học tiếng Anh từ lớp 1 không có nghĩa là trẻ phải học nặng, học ngữ pháp sớm. Quan trọng là học qua trò chơi, âm nhạc, giao tiếp nhẹ nhàng để tạo hứng thú và phản xạ tự nhiên. Nếu phương pháp không phù hợp, trẻ dễ sợ học tiếng Anh thay vì yêu thích nó.
Đề cao niềm vui học tập và sự tương tác của học sinh
Việc dạy tiếng Anh từ lớp 1 hoàn toàn phù hợp với năng lực tiếp nhận của học sinh Việt Nam, đồng thời phù hợp với xu hướng giáo dục của khu vực và thế giới. Việc học sớm giúp trẻ hình thành phản xạ ngôn ngữ tự nhiên và phát triển khả năng giao tiếp ngay từ những năm đầu tiểu học.
Hiện nay, ở bậc mầm non, nhiều trẻ đã được làm quen với tiếng Anh qua các hoạt động hát, kể chuyện, trò chơi; nhờ đó, khi vào lớp 1, các em đã có sự chuẩn bị tốt về tâm lý và khả năng tiếp nhận ngôn ngữ, giúp việc học trở nên tự nhiên và hứng thú hơn.
Đối với các vùng nông thôn và miền núi, chủ trương này vẫn có thể khả thi nếu có lộ trình rõ ràng và đầu tư đồng bộ về nguồn lực. Dù nhiều địa phương đã có giáo viên đạt chuẩn, nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng và điều kiện giảng dạy. Vì vậy, cần bổ sung đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản, đồng thời có chính sách thu hút, đãi ngộ hợp lý để khuyến khích giáo viên giỏi về công tác tại vùng khó khăn.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ và nền tảng học tập số là giải pháp thiết thực giúp khắc phục khoảng cách địa lý, tạo cơ hội cho học sinh vùng sâu vùng xa tiếp cận bài giảng, hình ảnh và ngữ âm chuẩn. Việc triển khai thí điểm trước ở một số địa phương, sau đó nhân rộng dần, sẽ giúp đảm bảo tính khả thi và tránh hình thức trong quá trình thực hiện.
Để việc dạy tiếng Anh từ lớp 1 đạt hiệu quả thực chất, trước hết cần chú trọng chất lượng đội ngũ giáo viên, đảm bảo được đào tạo đúng chuyên môn, nắm vững phương pháp giảng dạy tiếng Anh cho trẻ nhỏ và được bồi dưỡng thường xuyên về kỹ năng sư phạm. Giáo trình cần được biên soạn phù hợp, chú trọng yếu tố tương tác, trò chơi và phát triển kỹ năng nghe-nói tự nhiên, giúp học sinh học bằng trải nghiệm thay vì học thuộc.
Bên cạnh đó, việc triển khai cần đi đôi với cơ chế kiểm tra, đánh giá thực chất; tập trung đánh giá năng lực giao tiếp cơ bản của học sinh trong ngữ cảnh thực tế, lấy niềm vui học tập và sự tương tác làm trung tâm.
Cơ sở vật chất cũng đóng vai trò quan trọng, cần được đầu tư đồng bộ, lớp học có sĩ số hợp lý và được trang bị thiết bị nghe-nhìn, học liệu trực tuyến. Bộ GD&ĐT cần triển khai hệ thống giám sát chất lượng và hỗ trợ chuyên môn thường xuyên, đặc biệt cho các vùng nông thôn và miền núi, để bảo đảm việc học tiếng Anh sớm mang lại giá trị thực, không hình thức.
TS TRẦN THẾ PHI, Trưởng khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sài Gòn
PHẠM ANH ghi












