ĐBQH. Bùi Hoài Sơn: Sự chuẩn mực và phẩm cách người làm báo sẽ là 'tấm hộ chiếu mềm' trong thời đại số

Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí là di sản vô giá, để phát huy hiệu quả trong thời đại truyền thông toàn cầu hóa, cần biết 'kích hoạt' tinh thần cốt lõi ấy bằng những phương thức, công cụ và tư duy hiện đại.

ĐBQH Bùi Hoài Sơn nêu quan điểm, người làm báo thời nay không chỉ giỏi nghiệp vụ, hiểu công nghệ, mà còn phải thấm nhuần tinh thần phục vụ Tổ quốc. (Nguồn: Quochoi.vn)

ĐBQH Bùi Hoài Sơn nêu quan điểm, người làm báo thời nay không chỉ giỏi nghiệp vụ, hiểu công nghệ, mà còn phải thấm nhuần tinh thần phục vụ Tổ quốc. (Nguồn: Quochoi.vn)

Báo chí theo bước chân Người

thế giới có đổi thay, dù công nghệ có phát triển đến đâu, thì những giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí vẫn luôn mang tính thời sự và dẫn đường cho chúng ta hôm nay, nhất là trong lĩnh vực truyền thông đối ngoại.

Tư tưởng báo chí Hồ Chí Minh kết tinh ở ba trụ cột lớn, vẫn còn nguyên vẹn giá trị: Thứ nhất, báo chí là công cụ phục vụ sự nghiệp cách mạng, là phương tiện để lan tỏa sự thật, kết nối nhân dân, kiến tạo niềm tin và khơi dậy hành động.

Đối với truyền thông đối ngoại, đây chính là kim chỉ nam: phải lấy việc phụng sự lợi ích quốc gia, dân tộc, quảng bá hình ảnh Việt Nam chân thực, tích cực ra thế giới làm mục tiêu tối thượng. Thế giới cần thấy một Việt Nam năng động, đổi mới, thân thiện và đáng tin cậy, điều đó không thể tách rời khỏi truyền thông đối ngoại.

Thứ hai, báo chí phải gắn với đạo đức, nhân cách người làm báo. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”.

Trong kỷ nguyên số, khi ranh giới giữa thông tin và dư luận ngày càng mong manh, thì lời dạy này càng trở nên sâu sắc. Truyền thông đối ngoại không chỉ cần thông tin nhanh, mà còn cần thông tin đúng, có chiều sâu, có tinh thần nhân văn, thể hiện được tầm vóc văn hóa và trí tuệ của dân tộc Việt Nam.

Thứ ba, báo chí phải là cầu nối giữa các nền văn hóa, giữa Việt Nam với bạn bè năm châu. Bác luôn nhấn mạnh tinh thần hòa hiếu, nhân ái và sự tôn trọng khác biệt văn hóa, đó cũng chính là phương châm cho truyền thông đối ngoại hôm nay. Chúng ta không chỉ nói với thế giới bằng ngôn ngữ của lý trí, mà còn bằng trái tim, bằng những câu chuyện mang hồn cốt Việt Nam: từ một dân tộc đã trải qua nhiều đau thương, đứng dậy trong hòa bình và khát vọng phát triển.

Vận dụng những giá trị ấy trong truyền thông đối ngoại hiện nay, không phải là quay về với những công cụ xưa cũ, mà là làm mới tinh thần Hồ Chí Minh trên nền tảng công nghệ hiện đại. Từ đó, mỗi thông điệp về Việt Nam đều là một hạt giống của hiểu biết, thiện chí và hợp tác lan tỏa trên bản đồ toàn cầu.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí là di sản vô giá, nhưng để phát huy hiệu quả trong thời đại truyền thông toàn cầu hóa, chúng ta cần biết “kích hoạt” tinh thần cốt lõi ấy bằng những phương thức, công cụ và tư duy hiện đại. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong truyền thông đối ngoại không phải là sao chép nguyên xi những hình thức của quá khứ. Điều quan trọng là làm sống dậy bản chất khai sáng, nhân văn, cầu thị và chiến lược của Người trong bối cảnh hoàn toàn mới, nơi thông tin là quyền lực, hình ảnh là tài sản và sự lan tỏa là thước đo của ảnh hưởng quốc gia.

"Trong bối cảnh cạnh tranh quốc gia ngày càng gay gắt, những câu chuyện Việt Nam được kể ra ngoài không chỉ đơn thuần là giao tiếp, mà là một phần của sức mạnh quốc gia. Mỗi bài báo, mỗi thước phim tài liệu, mỗi chiến dịch truyền thông nếu được làm bằng tâm huyết và trí tuệ, đều là một nhịp cầu bền vững giúp thế giới hiểu, yêu và gắn bó hơn với đất nước ta".

Trước hết, cần vận dụng linh hoạt lời dạy của Bác về “viết cho dân hiểu, dân tin, dân làm” sang “viết cho thế giới thấy, thế giới tin, thế giới hợp tác”. Muốn vậy, báo chí đối ngoại không thể là những bản tin khô khan, mà phải trở thành những câu chuyện lay động, hình ảnh giàu cảm xúc, lát cắt tinh tế về văn hóa, con người, lịch sử, nỗ lực và khát vọng của Việt Nam. Trong một thế giới đầy biến động, thế giới không chỉ cần biết Việt Nam ở đâu, mà còn cần hiểu Việt Nam là ai, chúng ta đang đi về đâu và truyền thông đối ngoại chính là người kể chuyện cho hành trình ấy.

Tiếp theo, cần hiện đại hóa cách làm báo chí theo hướng số hóa toàn diện. Nếu như trước đây, báo chí một chiều thì nay, truyền thông đối ngoại phải tương tác, kết nối và kiến tạo cộng đồng quốc tế yêu Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng văn hóa các dân tộc, thúc đẩy hòa bình, hợp tác chính là nền tảng để chúng ta xây dựng các sản phẩm truyền thông có tính giao lưu, đối thoại, thuyết phục bằng văn hóa chứ không áp đặt bằng tuyên truyền.

Trên hết, cần đào tạo một thế hệ người làm báo chí truyền thông đối ngoại có “tâm trong, trí sáng, tầm toàn cầu”. Những người ấy không chỉ giỏi nghiệp vụ, hiểu công nghệ, mà còn phải thấm nhuần tinh thần phục vụ Tổ quốc như Bác từng dặn: “Làm báo để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo, chỉ có bản lĩnh con người được tôi luyện bằng tư tưởng Hồ Chí Minh mới giúp báo chí đối ngoại không bị hòa tan, mà vươn lên mạnh mẽ, lan tỏa giá trị Việt Nam một cách sâu sắc và bền vững.

Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ngọn lửa, còn nhiệm vụ của chúng ta là tìm ra những ngọn đuốc mới để truyền ngọn lửa ấy đi khắp năm châu. Đó là cách tốt nhất để Việt Nam không chỉ được thế giới biết đến, mà còn được yêu mến, tin tưởng và đồng hành.

Vai trò của truyền thông đối ngoại không dừng lại ở việc thông tin về Việt Nam, cao hơn thế là xây dựng và lan tỏa hình ảnh Việt Nam ra thế giới.

Vai trò của truyền thông đối ngoại không dừng lại ở việc thông tin về Việt Nam, cao hơn thế là xây dựng và lan tỏa hình ảnh Việt Nam ra thế giới.

Giữ được "tâm sáng, lòng trong, bút sắc"

Trong thời đại mà mỗi quốc gia không chỉ cạnh tranh bằng tài nguyên, vốn hay công nghệ, mà còn bằng hình ảnh, bản sắc và niềm tin thì truyền thông đối ngoại trở thành một trong những "quyền lực mềm" quan trọng nhất để nâng tầm vị thế quốc gia. Tôi tin rằng, báo chí và truyền thông đối ngoại chính là "người đại diện không quốc tịch", nhưng mang quốc hồn, quốc túy, là cầu nối đưa Việt Nam vượt qua mọi khoảng cách địa lý, văn hóa và ngôn ngữ để hiện diện sâu sắc trong tâm trí và trái tim bạn bè quốc tế.

Vai trò của truyền thông đối ngoại không dừng lại ở việc “thông tin về Việt Nam”, cao hơn thế là “xây dựng hình ảnh Việt Nam” – một quốc gia yêu chuộng hòa bình, kiên cường trong lịch sử, khát vọng trong hiện tại, đáng tin cậy trong tương lai. Bằng sức mạnh của ngôn từ, hình ảnh, cảm xúc và công nghệ, báo chí có thể biến một sáng kiến thành tầm nhìn quốc gia, một con người bình dị thành biểu tượng văn hóa, một giá trị truyền thống thành thông điệp hiện đại mang tính toàn cầu.

Truyền thông đối ngoại không chỉ là tiếng nói của Nhà nước mà còn là lời chào của dân tộc Việt Nam với thế giới. Đó là nơi chúng ta giới thiệu di sản văn hóa nghìn năm, con người cần cù, hiếu khách, sáng tạo; là nơi chúng ta khẳng định sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập sâu rộng và đầy trách nhiệm của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

Trong bối cảnh cạnh tranh quốc gia ngày càng gay gắt, những câu chuyện Việt Nam được kể ra ngoài không chỉ đơn thuần là "giao tiếp", mà là một phần của "sức mạnh quốc gia". Mỗi bài báo, mỗi thước phim tài liệu, mỗi chiến dịch truyền thông nếu được làm bằng tâm huyết và trí tuệ, đều là một “nhịp cầu” bền vững giúp thế giới hiểu, yêu và gắn bó hơn với đất nước ta.

Tôi cho rằng, truyền thông đối ngoại phải là nơi khơi nguồn cảm hứng quốc gia, nơi từ đó những giá trị Việt Nam không chỉ được giữ gìn, mà còn được lan tỏa, chuyển hóa thành niềm tin, thiện chí, cơ hội và hợp tác quốc tế. Đó chính là cách báo chí góp phần làm nên một “thương hiệu Việt Nam” uy tín, nhân văn và vững chắc trên trường quốc tế.

"Trong một thế giới đầy biến động, sự chuẩn mực và phẩm cách của người làm báo sẽ là 'tấm hộ chiếu mềm' đưa Việt Nam đến với thế giới một cách bền vững và đáng tin cậy nhất".

Trong kỷ nguyên số, khi mỗi người đều có thể trở thành “người đưa tin” và mỗi thông tin đều có thể lan truyền với tốc độ ánh sáng, thì thách thức lớn nhất đối với người làm báo không còn chỉ là “viết nhanh” hay “viết hay” mà là viết đúng, viết thật, viết có trách nhiệm. Hơn bao giờ hết, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tâm sáng, lòng trong, bút sắc” chính là ngọn hải đăng soi đường cho thế hệ nhà báo hôm nay, đặc biệt là trong lĩnh vực truyền thông đối ngoại – nơi mỗi con chữ, mỗi hình ảnh đều mang theo hình ảnh quốc gia và danh dự dân tộc.

Để có “tâm sáng”, nhà báo truyền thông đối ngoại trước hết phải có tình yêu sâu sắc với đất nước, với sự thật và với nhân loại. Họ cần luôn giữ cho mình một tinh thần khách quan, nhân văn và cầu thị, bởi họ không chỉ đang làm nghề, mà đang thực hiện một sứ mệnh: giới thiệu đất nước mình với thế giới một cách chân thành, tự tin và có chiều sâu văn hóa. “Tâm sáng” tức biết đâu là điều nên nói, đâu là điều cần nói, đâu là điều có thể chạm đến trái tim người đọc quốc tế.

“Lòng trong” là sự trong sạch về đạo đức nghề nghiệp, là bản lĩnh trước cám dỗ của tin giả, của những thông tin câu view, giật gân, xuyên tạc. Giữa một đại dương thông tin đầy hỗn loạn, người làm báo cần giữ vững nguyên tắc nghề nghiệp, không vì hào quang ảo hay lợi ích cá nhân mà đánh mất tính chính trực của ngòi bút. Chính từ "lòng trong" ấy mà truyền thông đối ngoại Việt Nam mới có thể chinh phục niềm tin quốc tế bằng tiếng nói minh bạch, nhân văn và trách nhiệm.

“Bút sắc” là trí tuệ, năng lực nắm bắt và xử lý thông tin hiện đại, là khả năng kể chuyện Việt Nam bằng ngôn ngữ của toàn cầu vừa dễ hiểu, vừa thuyết phục, vừa để lại ấn tượng sâu sắc. Nhà báo truyền thông đối ngoại không chỉ cần giỏi tiếng Việt, mà còn cần hiểu thế giới, nói được ngôn ngữ của đối thoại, tôn trọng khác biệt, và biết cách đưa hình ảnh Việt Nam hội nhập mà không hòa tan, đa dạng mà không mất gốc.

Để làm được điều đó, rất cần sự quan tâm trong đào tạo, bồi dưỡng lực lượng báo chí có năng lực toàn cầu, am hiểu quốc tế nhưng vẫn vững vàng về bản lĩnh chính trị. Cần tạo ra các không gian học tập, giao lưu quốc tế, các cơ hội trải nghiệm thực tiễn tại nước ngoài, đồng thời phải nâng cao năng lực phản biện, đạo đức nghề nghiệp và tinh thần phục vụ đất nước một cách sâu sắc, đúng với tinh thần Hồ Chí Minh.

Phóng viên Báo Thế giới và Việt Nam tác nghiệp tại Hội nghị P4G.

Phóng viên Báo Thế giới và Việt Nam tác nghiệp tại Hội nghị P4G.

Đề cao phẩm cách người làm báo

Trong một thế giới đầy biến động, sự chuẩn mực và phẩm cách của người làm báo sẽ là "tấm hộ chiếu mềm” đưa Việt Nam đến với thế giới một cách bền vững và đáng tin cậy nhất. Nếu mỗi nhà báo đều mang trong mình “tâm sáng – lòng trong – bút sắc”, chính họ sẽ là những đại sứ văn hóa mạnh mẽ nhất của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Văn hóa là sợi dây bền chặt gắn kết các dân tộc". Người cũng là hiện thân sống động của tinh thần cởi mở, hội nhập, hòa hiếu trong giao lưu quốc tế. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác không chỉ tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hóa lớn đến các dân tộc thuộc địa mà còn truyền bá những giá trị văn hóa Việt Nam đến bạn bè thế giới bằng sự giản dị, sâu sắc và chân thành. Tư tưởng ấy về một nền văn hóa vừa đậm đà bản sắc, vừa rộng mở, nhân văn chính là kim chỉ nam cho báo chí truyền thông đối ngoại Việt Nam hôm nay.

Để báo chí thực sự trở thành diễn đàn giao lưu văn hóa và chiếc cầu nối hữu hiệu giữa Việt Nam với thế giới, trước hết, cần chuyển từ cách truyền tải một chiều sang phương thức đối thoại văn hóa bình đẳng. Báo chí đối ngoại không nên chỉ “nói cho thế giới nghe”, mà phải “lắng nghe thế giới nói”, để từ đó hình thành một không gian thông tin hai chiều, nơi bản sắc Việt Nam được khẳng định thông qua sự tôn trọng, tương tác và sẻ chia.

Đồng thời, cần kể những câu chuyện Việt Nam bằng ngôn ngữ toàn cầu, không chỉ về chiến thắng và nỗ lực vượt khó, mà cả về đời sống thường ngày, tinh thần nhân văn, sáng tạo của người Việt. Báo chí đối ngoại nên chú trọng sản xuất các sản phẩm truyền thông hiện đại từ phim tài liệu, podcast, đồ họa tương tác, video ngắn trên nền tảng số vừa dễ tiếp cận, vừa mang giá trị thẩm mỹ và tri thức, qua đó khắc họa Việt Nam không chỉ bằng dữ liệu, mà bằng cảm xúc.

Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực truyền thông văn hóa, bằng việc thiết lập các chương trình trao đổi phóng viên, đồng sản xuất nội dung với các cơ quan báo chí uy tín trên thế giới, tham gia các diễn đàn báo chí toàn cầu. Mỗi sự hiện diện quốc tế của báo chí Việt Nam là một cơ hội để lan tỏa tư tưởng hòa bình, hợp tác, cùng phát triển vốn là cốt lõi trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại.

Ngoài ra,báo chí nói chung cần phối hợp chặt chẽ với các ngành ngoại giao, văn hóa, giáo dục, du lịch… để xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia dài hạn, có tính hệ thống, nhằm quảng bá hình ảnh Việt Nam như một đất nước vừa có bề dày lịch sử, văn hóa, vừa có năng lực sáng tạo hiện đại, vừa sẵn sàng đồng hành cùng cộng đồng quốc tế vì mục tiêu hòa bình và phát triển bền vững.

Tôi tin, nếu giữ vững được cốt lõi văn hóa dân tộc, không ngừng tiếp thu tinh hoa thế giới với tinh thần cầu thị và bản lĩnh, báo chí truyền thông đối ngoại Việt Nam sẽ không chỉ là người kể chuyện, mà còn là người viết tiếp những chương đẹp trong hành trình giao lưu văn hóa. Đồng thời, tăng cường hiểu biết và thúc đẩy hòa bình toàn cầu đúng như khát vọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng gửi gắm cho dân tộc Việt Nam.

ĐBQH. Bùi Hoài Sơn

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/dbqh-bui-hoai-son-su-chuan-muc-va-pham-cach-nguoi-lam-bao-se-la-tam-ho-chieu-mem-trong-thoi-dai-so-318135.html