ĐBQH Cao Thị Xuân đề nghị rà soát kỹ lưỡng kỹ thuật lập pháp, tránh dẫn chiếu nhiều lần

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, sáng 11/11, Quốc hội làm việc tại hội trường để thảo luận về dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) và dự án Luật Giám định tư pháp (sửa đổi).

Đại biểu Cao Thị Xuân, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa.

Đại biểu Cao Thị Xuân, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa.

Tham gia góp ý vào dự án Luật Thi hành án dân sự (THADS) (sửa đổi), đại biểu Cao Thị Xuân, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho rằng, đây là dự án luật chuyên ngành tư pháp với nhiều nội dung khó, phức tạp, chuyên sâu; phạm vi sửa đổi toàn diện, nhiều nội dung được loại bỏ hoặc bổ sung mới... nhưng lại được Quốc hội cho ý kiến và thông qua theo quy trình tại một kỳ họp.

Đại biểu đánh giá cao tinh thần, trách nhiệm của cơ quan thẩm tra, cơ quan chủ trì soạn thảo đã làm việc trách nhiệm, tập trung, kỹ lưỡng và chất lượng trong bối cảnh Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cùng lúc phải giải quyết khối lượng công việc rất lớn.

Góp ý về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong THADS (điều 14), đại biểu Cao Thị Xuân cho rằng, khoản 2 Điều 14 quy định: “Trường hợp có sự chống đối, cản trở việc thi hành án, cơ quan THADS đề nghị lực lượng công an bảo đảm trật tự, an toàn theo quy định của pháp luật” chưa thực sự phù hợp ở 2 vấn đề.

Cụ thể, trường hợp có sự chống đối, cản trở việc thi hành án thì cơ quan thi hành án đề nghị phối hợp của lực lượng công an. Thực tế trong nhiều trường hợp cơ quan thi hành án rất khó để dự báo trước được việc đương sự có sự chống đối hay cản trở thi hành án hay không; khi xảy ra chống đối, cản trở, cơ quan thi hành án mới đề nghị lực lượng công an phối hợp thì có thể sẽ không kịp thời, hiệu quả.

Hơn nữa, trong thực tiễn tổ chức THADS cho thấy, nếu “đơn thương độc mã” tổ chức thi hành án thì hiệu quả không cao. Do đó, rất cần sự chung tay vào cuộc của cấp ủy, chính quyền, lực lượng công an, tòa án, viện kiểm sát.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 17, cơ quan THADS gồm: Cơ quan THADS tỉnh, thành phố; cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (sau đây gọi là cơ quan thi hành án cấp quân khu).

Như vậy, quy định tại khoản 2 Điều 14 không áp dụng đối với văn phòng THADS; trong khi đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 27, khoản 1 Điều 31, khoản 1 Điều 32 thì văn phòng THADS được quyền tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự đối với những bản án, quyết định giống như thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định của cơ quan THADS tỉnh, thành phố.

Từ những phân tích trên, theo đại biểu Cao Thị Xuân, cơ quan soạn thảo cần cân nhắc chỉnh lý khoản 2 Điều 14 theo hướng bổ sung Văn phòng THADS được quyền đề nghị lực lượng công an bảo đảm trật tự, an toàn theo quy định của pháp luật; đồng thời, làm rõ theo quy định của pháp luật nào và trường hợp nào thì được xem là có sự chống đối, cản trở việc thi hành án để có cơ sở đề nghị lực lượng công an bảo đảm trật tự, an toàn.

Tại khoản 3 Điều 19 quy định: “Cơ quan THADS tỉnh, thành phố có Phòng THADS khu vực, Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án và các đơn vị cấp phòng khác.” Tuy nhiên, qua nghiên cứu báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật và Tư pháp và Tờ trình số 726 của Chính phủ, đại biểu cho rằng, Điều 19 dự thảo Luật chưa quy định cụ thể nguyên tắc để thành lập các Phòng THADS khu vực được đặt tương đồng, thống nhất với 355 Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân khu vực, thống nhất về số lượng, phạm vi, thẩm quyền hoạt động, địa điểm đặt trụ sở, tương đồng về tên gọi.

Do đó, đại biểu đề nghị cân nhắc bổ sung vào khoản 3 Điều 19 quy định về nguyên tắc thành lập, sắp xếp, bố trí Phòng THADS khu vực theo hướng Phòng THADS khu vực được tổ chức thống nhất về số lượng, thống nhất về phạm vi thẩm quyền hoạt động, thống nhất về địa điểm đặt trụ sở và tương đồng về tên gọi với Tòa án nhân dân khu vực, Viện kiểm sát nhân dân khu vực để thể chế hóa ngay trong luật một cách cụ thể các yêu cầu tại Kết luận số 162-KL/TW về “bảo đảm cơ quan thi hành án các cấp phù hợp với bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân hoạt động thật sự hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Về nhiệm vụ, quyền hạn; thủ tục thi hành án của Văn phòng THADS, Thừa hành viên (từ Điều 26 đến Điều 31), đại biểu cơ bản tán thành với các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng THADS, Thừa hành viên trong dự thảo luật nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động THADS với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp theo Nghị quyết số 27 của Trung ương góp phần giảm tải cho cơ quan THADS, đồng thời đảm bảo quá trình sắp xếp tinh gọn bộ máy, hệ thống THADS.

Tuy nhiên, đại biểu bày tỏ băn khoăn về tính khả thi trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng THADS, Thừa hành viên.

Kết quả tổng kết thí điểm hoạt động thừa phát lại giai đoạn 2009-2015 trao cho Thừa phát lại quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế như chấp hành viên. Theo quy định 08/2020/NĐ-CP thẩm quyền này không còn nên đã hạn chế rất lớn đến kết quả THADS của Thừa phát lại. Qua các báo cáo tổng kết, đánh giá của ngành cho thấy số lượng vụ việc tồn đọng hàng năm rất lớn, số vụ việc phải chuyển qua năm sau cũng rất nhiều là một khó khăn thách thức không hề nhỏ đối với hệ thống cơ quan thi hành án.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng THADS, Thừa hành viên là những quy định mới được bổ sung trong dự thảo luật lần này trên cơ sở chế định về Thừa phát lại. Đại biểu cho rằng: "Tương tự quan điểm chỉ đạo khi xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp trong đó phân cấp, phân quyền rất rõ, cụ thể cho địa phương và địa phương quyết thì địa phương chịu trách nhiệm. Chúng ta đã thống nhất đẩy mạnh xã hội hóa và lần này đã luật hóa cụ thể thì cần trao quyền mạnh hơn nữa để bảo đảm tính khả thi trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã giao. Văn phòng THADS, Thừa hành viên cũng thực hiện những nhiệm vụ tương tự như cơ quan thi hành án, các quy định loại trừ đã quy định cụ thể, cơ chế ràng buộc về đạo đức nghề nghiệp về trách nhiệm trước khách hàng, trước pháp luật cũng đã có; đánh giá tổng kết thí điểm cũng đã hết sức cụ thể...".

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc kỹ lưỡng hơn nữa các quy định để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả trong thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng THADS, Thừa hành viên.

Đại biểu Cao Thị Xuân đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát kỹ lưỡng về kỹ thuật lập pháp, tránh dẫn chiếu nhiều lần, khó trong quá trình tiếp cận và áp dụng luật.

Ví dụ, liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của văn phòng THADS. Tại khoản 1 Điều 27 quy định văn phòng THADS: “Tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định tại khoản 1 Điều 31 của Luật này”.

Tuy nhiên, khoản 1 Điều 31 quy định: “Văn phòng THADS tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự đối với những bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 32 của Luật này...”.

Như vậy, quy định tại khoản 1 Điều 31 lại tiếp tục dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 32; theo đó, phải tiếp tục đọc đến khoản 1 Điều 32 thì mới biết văn phòng THADS được quyền tổ chức thi hành những bản án, quyết định cụ thể nào.

Quốc Hương

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/dbqh-cao-thi-xuan-de-nghi-ra-soat-ky-luong-ky-thuat-lap-phap-tranh-dan-chieu-nhieu-lan-268376.htm