ĐBQH Mai Văn Hải (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa) tham gia góp ý về dự án Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi)
Sáng 28/11, tại Nhà Quốc hội, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 8, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội tiến hành thảo luận ở hội trường về dự án Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi).
Tham gia góp ý, ĐBQH Mai Văn Hải, Tỉnh ủy viên, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh nhất trí với sự cần thiết phải sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khắc phục các vướng mắc, bất cập của luật hiện hành để phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh tế.
Trên cơ sở hồ sơ dự án luật do Chính phủ trình và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính Ngân sách, để góp phần hoàn thiện dự án luật, ĐBQH Mai Văn Hải tham gia một số vấn đề đó là: Điểm g khoản 2 Điều 3 thu nhập chịu thuế quy định: “g) Khoản trích trước vào chi phí nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không hết;...”. Theo đó, qua khảo sát, trên thực tế, khoản trích trước doanh nghiệp sẽ ghi nhận vào chi phí từ đầu năm hoặc trích trước cho từng dự án và chỉ quyết toán vào chi phí khi đầy đủ hồ sơ theo quy định và loại ra khỏi quyết toán cuối năm những khoản chi phí không đúng quy định. Do vậy, khoản trích trước này thực chất chưa tính vào chi phí trong kỳ quyết toán thuế nếu không thực chi và chi không đúng quy định. Vậy nên nếu chỉ quy định như dự thảo sẽ chưa bao quát hết tất cả các trường hợp. Ngoài ra, có những doanh nghiệp sẽ có lập khoản trích vào chi phí trước từ đầu năm, thậm chí có chi phí trích trước vài năm. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể ước tính khoản này chính xác một cách tuyệt đối ngay từ đầu bởi doanh nghiệp xây dựng khoản này dựa trên kế hoạch sản xuất, kinh doanh, mà kế hoạch sản xuất, kinh doanh thì có thể thay đổi do yếu tố khách quan hoặc nhu cầu của thị trường. Vì vậy, các khoản trích trước không sử dụng đến hoặc không sử dụng hết mà phải quyết toán trong một năm đưa vào thu nhập chịu thuế là điều không khả thi đối với mọi trường hợp.
ĐBQH Mai Văn Hải đề nghị xem xét quy định: Cho phép doanh nghiệp được cộng dồn số tiền trích trước, nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không hết vào khoản trích trước của năm sau.
Tại điểm m khoản 2 Điều 9 dự thảo luật: Khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế “Khoản chi không tương ứng với doanh thu tính thuế”. Theo đó, trên thực tế nảy sinh tình huống doanh nghiệp bỏ chi phí chuẩn bị đầu tư hoặc đã bỏ tiền đầu tư dự án kinh doanh. Nhưng do các lý do khách quan, dự án gặp rủi ro và doanh nghiệp không có doanh thu từ dự án đó (nhưng doanh nghiệp vẫn có doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh khác). Trong những trường hợp như vậy, cơ quan thuế thường căn cứ vào quy định “khoản chi không tương ứng với doanh thu tính thuế” để loại bỏ chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí đã đầu tư của dự án gặp rủi ro. Điều này là bất hợp lý và ảnh hưởng đến động lực đầu tư của doanh nghiệp. Rủi ro không có doanh thu là điều không một doanh nghiệp nào mong muốn, nhưng đó là một phần tất yếu của hoạt động đầu tư kinh doanh. Nếu không cho phép tính chi phí được trừ trong trường hợp này sẽ khiến các doanh nghiệp ngần ngại khi mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, triển khai đầu tư các dự án mới có rủi ro cao, các dự án đầu tư mạo hiểm, mô hình kinh doanh mới hoặc các hoạt động đổi mới sáng tạo. Trong khi đây lại là những lĩnh vực, hoạt động mang lại động lực tăng trưởng cho đất nước.
Do đó, đề nghị nghiên cứu bổ sung thêm các loại chi phí liên quan đến việc chuẩn bị đầu tư và đầu tư dự án mới nhưng sau đó gặp rủi ro dẫn đến không có doanh thu vào diện chi phí được trừ khi xác định nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp.
Về nội dung quy định: “khoản chi không đáp ứng điều kiện chi, nội dung chi theo quy định của pháp luật chuyên ngành”. Đề nghị xem xét bỏ quy định này vì vi phạm nguyên tắc quy định của luật nào thì xử lý theo luật đó, không nên quy định chồng chéo và loại bỏ các chi phí hợp lý, hợp lệ mà liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và có đầy đủ hồ sơ chứng từ thì vẫn phải xem xét để đưa vào chi phí hợp lý, hợp lệ.
Tại Khoản 4, Điều 14 dự thảo luật về miễn, giảm thuế quy định: “4. Thời gian miễn thuế, giảm thuế được tính từ năm đầu tiên có thu nhập chịu thuế từ dự án đầu tư, trường hợp không có thu nhập chịu thuế trong 3 năm đầu, kể từ năm đầu tiên có doanh thu từ dự án thì thời gian miễn thuế, giảm thuế được tính từ năm thứ 4.”
Quy định về “năm đầu tiên có thu nhập chịu thuế” sẽ có những cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, doanh thu theo quy định của luật phải là doanh thu của hàng hóa, dịch vụ phát sinh từ ngành nghề mục tiêu của dự án đầu tư, không phải là doanh thu phát sinh kể từ khi triển khai dự án (khi triển khai dự án có thể phát sinh doanh thu khác, doanh thu tài chính, các khoản doanh thu này không liên quan đến ngành nghề mục tiêu của dự án). Do vậy, để đảm bảo cách hiểu và thực thi thống nhất, đề nghị bổ sung quy định: "Doanh thu từ dự án là doanh thu từ việc tiêu thụ sản phẩm mục tiêu của dự án”.