ĐBQH Trần Thị Nhị Hà (Hà Nội): Cần chính sách đặc biệt để nâng cao chất lượng dân số
Phát biểu thảo luận tại Tổ 1 (Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội) về Dự thảo Luật Dân số, ĐBQH Trần Thị Nhị Hà khẳng định, đây là dự án luật có ý nghĩa đặc biệt trong việc nâng cao chất lượng dân số, thích ứng với già hóa dân số và phát triển bền vững đất nước.
Bổ sung thêm quy định về chính sách việc làm cho người cao tuổi
Góp ý về nhóm quy định liên quan đến nâng cao chất lượng dân số (Điều 20, 21), ĐBQH Trần Thị Nhị Hà nhấn mạnh, chất lượng dân số chỉ thực sự được cải thiện khi toàn bộ quá trình từ thời điểm cha mẹ dự định có con được tư vấn, khám sức khỏe sinh sản, đến giai đoạn sàng lọc, chẩn đoán trước sinh, sơ sinh, cùng với các chương trình dinh dưỡng, giáo dục và chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ được triển khai đồng bộ. Tuy nhiên, dự thảo mới chỉ quy định hai giai đoạn, đó là giai đoạn trước khi kết hôn và giai đoạn trước sinh, sơ sinh. Như vậy, đang thiếu chính sách liên quan đến dinh dưỡng học đường, giáo dục thể chất và y tế học đường cho trẻ em, thanh thiếu niên.

ĐBQH Trần Thị Nhị Hà phát biểu thảo luận tại Tổ 1
Đây là những chính sách đặc biệt quan trọng để nâng cao chất lượng dân số và năng lực cạnh tranh quốc gia của thế hệ trẻ Việt Nam, như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm vừa qua. Vì vậy, đại biểu kiến nghị bổ sung quy định về chính sách dân số đối với trẻ em chưa thành niên và thanh niên, tập trung vào ba trụ cột, đó là dinh dưỡng, giáo dục thể chất và y tế học đường.
Đề cập đến nhóm quy định tại các Điều 17, 18, 19 về chính sách thích ứng với già hóa dân số, đại biểu cho rằng, nội dung hiện nay mới chỉ tập trung vào chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, chưa phản ánh đầy đủ tinh thần chủ trương của Trung ương về thích ứng chủ động với già hóa dân số. Theo đại biểu, người cao tuổi không chỉ là đối tượng cần chăm sóc, mà còn là nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng, kinh nghiệm quý báu. Nếu có sức khỏe và nguyện vọng, họ hoàn toàn có thể tiếp tục đóng góp vào thị trường lao động.
Dẫn chứng từ kinh nghiệm Nhật Bản – quốc gia có tỷ lệ dân số già cao, ĐBQH Trần Thị Nhị Hà cho biết, nước này đã ban hành Luật bảo đảm việc làm cho người cao tuổi từ năm 1971; trong đó, bắt buộc doanh nghiệp tạo điều kiện cho người lao động đủ sức khỏe được kéo dài thời gian làm việc thêm 5 năm sau tuổi nghỉ hưu; đồng thời, có chính sách thuế khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động từ 65 đến 70 tuổi. Nhờ đó, đến năm 2023, Nhật Bản có hơn 9 triệu người từ 65 tuổi trở lên vẫn đang làm việc.
Đại biểu cũng đề nghị bổ sung thêm một điều quy định về chính sách việc làm cho người cao tuổi, trong đó nêu rõ điều kiện được kéo dài thời gian làm việc nếu có nguyện vọng và đủ sức khỏe. Mặc dù Việt Nam hiện nay chưa phải đối mặt với dân số già, song việc quy định lộ trình và cơ chế chuẩn bị sớm là cần thiết để thích ứng trong tương lai.
Đề xuất tăng thời gian nghỉ thai sản tại địa bàn có mức sinh thấp
Về quy mô, cơ cấu và phân bổ dân số, ĐBQH Trần Thị Nhị Hà đánh giá cao quy định tại Điều 13 về duy trì mức sinh thay thế, coi đây là chính sách mới, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Tuy nhiên, để chính sách đi vào cuộc sống, cần có các giải pháp cụ thể, tạo động lực cho người dân sinh con, đặc biệt tại các khu vực đô thị có mức sinh thấp.
Đại biểu cho biết, nguyên nhân chính khiến tỷ lệ sinh ở đô thị giảm là do chi phí nuôi con cao và thiếu dịch vụ trông trẻ phù hợp. Do đó, cần có chính sách trực tiếp giải quyết hai vấn đề này.

Quang cảnh thảo luận tại Tổ 1
Về quy định phụ nữ sinh con thứ hai được nghỉ thêm 1 tháng, nam giới nghỉ thêm 5 ngày làm việc, theo đánh giá của đại biểu Trần Thị Nhị Hà như vậy là chưa đủ sức khuyến khích. Đại biểu kiến nghị, phụ nữ sinh con thứ hai tại địa bàn có mức sinh thấp được nghỉ thêm 2 tháng, trong đó 1 tháng có thể sử dụng linh hoạt trong vòng 1 năm kể từ thời điểm sinh; nam giới được nghỉ thêm 10 ngày làm việc, trong đó 5 ngày được sử dụng linh hoạt trong 1 năm kể từ thời điểm vợ sinh con thứ hai.
Liên quan đến mất cân bằng giới tính khi sinh, ĐBQH Trần Thị Nhị Hà đánh giá, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn tồn tại là một trong những nguyên nhân trực tiếp đến từ hành vi tiết lộ giới tính thai nhi trong quá trình sàng lọc, chẩn đoán trước sinh. Theo dẫn chứng của đại biểu, nhiều bác sĩ vẫn tiết lộ giới tính thai nhi cho cha mẹ bằng ký hiệu hoặc ám hiệu hiện. Đây là hành vi nguy hiểm, góp phần làm gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh, cần có quy định xử lý nghiêm.
Tại Khoản 2 Điều 15 về “Đình chỉ đối với người hành nghề y có hành vi công bố, thông báo, tiết lộ thông tin về giới tính thai nhi cho khách hàng”, đại biểu đánh giá quy định này vẫn chưa đủ sức răn đe đối với người hành nghề. Đồng thời, kiến nghị thay việc xử lý đình chỉ bằng việc thu hồi chứng chỉ hành nghề y, không cấp lại trong thời gian ít nhất 5 năm.