Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh góp ý vào dự án Luật Dân số, Luật Phòng bệnh và Luật Báo chí (sửa đổi)
Chiều 23/10, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, tại Tổ thảo luận số 8, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Cà Mau thảo luận vào ba dự án luật: Luật Dân số, Luật Phòng bệnh và Luật Báo chí (sửa đổi).
Các đại biểu nhất trí cao về sự cần thiết phải sửa đổi các luật này nhằm kịp thời thể chế hóa các chủ trương của Đảng và hoàn thiện hành lang pháp lý, hoàn thiện thể chế. Đặc biệt, việc xây dựng Luật Dân số nhằm thay thế Pháp lệnh Dân số là cần thiết để thể chế hóa quan điểm mới của Đảng, chuyển trọng tâm chính sách từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Mục tiêu là bảo đảm tính đồng bộ pháp luật, giải quyết toàn diện các vấn đề về quy mô, cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số trong tình hình mới.

Đại biểu Phạm Văn Thịnh, Đoàn Bắc Ninh phát biểu thảo luận tại tổ.
Đối với dự thảo Luật Phòng bệnh, các đại biểu nhất trí với việc xây dựng Luật trên cơ sở kế thừa, cập nhật và mở rộng so với Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và khắc phục vướng mắc trong công tác phòng, chống dịch. Luật bổ sung mới quy định về nguyên tắc thực hiện dinh dưỡng trong phòng bệnh và dinh dưỡng cho một số đối tượng, cùng với quy định về yếu tố nguy cơ, phát hiện sớm và các biện pháp phòng ngừa mắc rối loạn sức khỏe tâm thần.
Việc sửa đổi Luật Báo chí được nhận định là cần thiết để tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành.
Nêu ý kiến cụ thể vào dự thảo luật, đại biểu Phạm Văn Thịnh, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh nhấn mạnh: Dự thảo Luật Dân số đã thể hiện việc chuyển trọng tâm chính sách, tập trung giải quyết các vấn đề như gia tăng tỷ lệ sinh để đạt mức sinh thay thế bền vững, giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh và nâng cao chất lượng dân số. Đại biểu khẳng định đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển.
Về quyền quyết định sinh con, đại biểu Phạm Văn Thịnh nhận định dự thảo Luật mới chỉ dừng lại ở việc quy định quyền quyết định về thời gian, số con và khoảng cách sinh con đối với cặp vợ chồng và cá nhân. Đại biểu đề xuất cần bổ sung quy định trao quyền cho cặp vợ chồng được quyết định người mang thai hộ. Theo đó, đại biểu kiến nghị bổ sung 1 khoản vào Điều 12 của dự thảo Luật, đồng thời giao nội dung này cho Chính phủ quy định chi tiết thi hành.

Đại biểu Trần Thị Vân, Đoàn Bắc Ninh thảo luận về Luật Dân số.
Góp ý vào Điều 17 (hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi) Luật Dân số, đại biểu Trần Thị Vân, Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh cơ bản nhất trí với quy định của dự thảo nhưng đề nghị Chính phủ cần quan tâm, có cơ chế đủ mạnh để làm tốt công tác xã hội hóa đối với việc hỗ trợ, chăm sóc người cao tuổi. Đại biểu Trần Thị Vân nhấn mạnh: Xã hội hóa là xu hướng tất yếu trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh, khi mô hình chăm sóc truyền thống trong gia đình dần suy giảm.
Để thúc đẩy xu hướng này, dự thảo luật cần bổ sung các chính sách ưu đãi cụ thể như: Hỗ trợ đất đai, miễn/giảm thuế cho các đơn vị cung cấp dịch vụ, hỗ trợ vay vốn ưu đãi và đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn. Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ để bảo đảm quyền lợi cho người cao tuổi, nhất là nhóm yếu thế.
Đại biểu Nguyễn Văn Thi (Đoàn Bắc Ninh) đồng tình và ủng hộ các biện pháp duy trì mức sinh thay thế đã được đề ra tại khoản 1, Điều 13 dự thảo luật Dân số như tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai, hỗ trợ tài chính và ưu tiên tiếp cận nhà ở xã hội cho các gia đình sinh đủ hai con trước 35 tuổi. Đây được đánh giá là những chính sách nhân văn và thực tiễn, giúp giảm áp lực kinh tế - xã hội cho các cặp vợ chồng.

Đại biểu Nguyễn Văn Thi thảo luận tại tổ.
Tuy nhiên nhằm nâng cao hiệu quả chính sách, đại biểu Nguyễn Văn Thi đề xuất cần bổ sung đối tượng phụ nữ lao động trong các ngành nặng nhọc và phụ nữ ở địa phương có mức sinh thấp vào nhóm được hỗ trợ tài chính khi sinh đủ 2 con trước 35 tuổi.
Một nội dung quan trọng khác là việc chăm sóc trẻ em từ 6 tháng đến 18 tháng tuổi. Đại biểu đề nghị Nhà nước tiếp tục có chính sách ưu việt hơn liên quan đến việc hình thành, xây dựng những nhóm trẻ, trường mầm non để chăm sóc, nuôi dạy trẻ em trong độ tuổi này. Vấn đề này hiện gây khó khăn lớn cho các gia đình trẻ do mức chi trả giúp việc rất cao hoặc các trường mầm non (kể cả tư thục) chưa nhận trông trẻ dưới 18 tháng tuổi. Đại biểu đề nghị cần phát triển hệ thống giáo dục mầm non chất lượng cao, chi phí hợp lý để các gia đình trẻ yên tâm sinh và nuôi con.