Để doanh nghiệp Việt Nam gia tăng giá trị trong chuỗi sản xuất toàn cầu

Xuất khẩu của Việt Nam dựa trên gia công, lắp ráp từ hàng hóa nhập khẩu đã tăng rất cao cả về quy mô lẫn tỷ trọng, từ 3 tỷ USD năm 2000 (chiếm 21,44%) lên 171,5 tỷ USD năm 2022 (chiếm 48,01%), cao hơn rất nhiều so với quốc gia cạnh tranh.

Cần nhiều hỗ trợ để tăng thêm giá trị của DN Việt trong chuỗi sản xuất toàn cầu. (Ảnh minh họa: TCCT)

Cần nhiều hỗ trợ để tăng thêm giá trị của DN Việt trong chuỗi sản xuất toàn cầu. (Ảnh minh họa: TCCT)

Xuất khẩu dựa trên gia công, lắp ráp từ hàng hóa nhập khẩu tăng rất cao

Bộ Công Thương vừa có tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ về Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Theo đó, Bộ Công Thương cho biết, kể từ khi gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại thế giới - WTO), cán cân thương mại của Việt Nam đã có sự cải thiện, từ mức thâm hụt thương mại 18 tỷ USD năm 2008 đến thặng dư thương mại liên tục từ năm 2016 và đạt mức xuất siêu 2 con số trong nhiều năm, trong đó lên mức cao đáng ngạc nhiên vào năm 2022 với trên 12 tỷ USD, năm 2023 lên đến 28 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu (XK) đã tăng gần 6 lần, từ 63 tỷ USD năm 2008 lên 371 tỷ USD vào năm 2022 (năm 2023 đạt 355 tỷ USD).

Tham gia WTO vào năm 2007 và ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở cửa kinh tế lớn (tỷ trọng xuất nhập khẩu/GDP xấp xỉ 200%), kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng cao, liên tục qua các năm. Chỉ trong vòng 3 thập kỷ, Việt Nam đã nổi lên như một cường quốc thế giới về sản xuất và xuất khẩu. Tăng trưởng xuất khẩu đã đưa Việt Nam cơ bản hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này đã giúp Việt Nam chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tuy nhiên, Bộ Công Thương đánh giá, mặc dù cơ bản hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu nhưng chất lượng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam, đặc biệt là DNNVV ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế. Trong đó, Việt Nam vẫn đang được định vị ở phân khúc thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đáng chú ý, giá trị gia tăng gắn với hàng XK có nguồn gốc từ Việt Nam không tăng trong thập niên vừa qua.

Tỷ trọng giá trị gia tăng trong tổng giá trị XK của Việt Nam giảm đáng kể đối với tất cả các ngành, từ 69% xuống chỉ còn 52% trong giai đoạn 2000 - 2020. So với các quốc gia tương đồng, Việt Nam là nước duy nhất có sự sụt giảm đáng kể hàm lượng giá trị gia tăng trong tổng giá trị XK.

Bên cạnh đó, DN hoạt động tại Việt Nam phụ thuộc vào nhập khẩu để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện Việt Nam đang nhập nguyên vật liệu, linh phụ kiện, máy móc công nghệ sản xuất của các ngành từ châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc... và chỉ đóng vai trò là nơi gia công, lắp ráp sản phẩm cuối cùng để XK vào thị trường tiêu thụ cuối cùng (thường là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản...).

Việc XK dựa trên gia công, lắp ráp từ hàng hóa nhập khẩu tăng rất cao cả về quy mô lẫn tỷ trọng, từ 3 tỷ USD năm 2000 (chiếm 21,44%) lên 171,5 tỷ USD năm 2022 (chiếm 48,01%), cao hơn hầu hết các quốc gia cạnh tranh. Trong khi các quốc gia này giảm liên tục qua các năm (năm 2022, tỷ trọng này ở Trung Quốc là 13,51%; Thái Lan 28,96%; Singapore 34,25%; Malaysia 26,38%).

Có lộ trình cụ thể nhằm từng bước chuyển dịch vị trí doanh nghiệp trong chuỗi

Thống kê cho thấy, số lượng DN trong nước, gồm cả DNNVV tham gia sản xuất, XK và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu rất thấp, chỉ chiếm 8,2% tổng số DN trong nước với đóng góp vào XK thấp hơn nhiều so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ trọng DNNVV đóng vai trò là một phần trong chuỗi giá trị toàn cầu cũng rất thấp (chỉ khoảng 21% vào năm 2018) và chỉ 14% DN đã thành công trong việc thu hút khách hàng hoặc đối tác nước ngoài.

Ngoài ra, do các DN có vốn đầu tư nước ngoài định vị Việt Nam ở các phân khúc có giá trị gia tăng thấp (gia công, lắp ráp) do các lợi thế về lao động giá rẻ, chi phí đầu vào sản xuất thấp, thuế xuất nhập khẩu thấp (do ký kết nhiều FTA)...; các phân khúc có giá trị gia tăng cao đều ở nước ngoài như các khâu thượng nguồn (nghiên cứu phát triển, thiết kế sản phẩm: quảng bá sản phẩm, phân phối, chăm sóc khách hàng...) và các khâu hạ nguồn (sản xuất nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ) đã hạn chế khả năng tham gia của Việt Nam vào các khâu sản xuất có giá trị gia tăng cao.

Do đó, Bộ Công Thương đã đề xuất xây dựng chương trình quốc gia về hỗ trợ DNNVV tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, định hướng tập trung thể chế hóa và tăng cường hiệu quả thực thi chính sách tạo thuận lợi cho để các DNNVV tham gia và chuyển dịch hiệu quả lên các phân khúc có giá trị tăng cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, tiến tới làm chủ một chuỗi giá trị mà Việt Nam có lợi thế. Chú trọng hỗ trợ DNNVV nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, kết nối hiệu quả vào các chuỗi cung ứng trong nước và trực tiếp XK.

Đặc biệt là có lộ trình cụ thể nhằm từng bước chuyển dịch từ DN gia công, lắp ráp lên DN sản xuất với thiết bị gốc, DN sản xuất có thiết bị gốc phát triển thành các DN sản xuất có thương hiệu gốc để từng bước khẳng định vị trí, thương hiệu của DN, sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Hoàng Tú

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/de-doanh-nghiep-viet-nam-gia-tang-gia-tri-trong-chuoi-san-xuat-toan-cau-post529270.html