Đề nghị phân bổ kinh phí thường xuyên chi cho bổ sung dinh dưỡng và phòng, chống thấp còi
Để hiện thực hóa mục tiêu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 15% vào năm 2030, đại biểu Quốc hội đề nghị cần có một khoản trong chi thường xuyên (khoảng 10-12%/năm) để chi trực tiếp cho các can thiệp dinh dưỡng như bổ sung vi chất, hỗ trợ dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ...
Tiếp tục Kỳ họp thứ 10, sáng 25/11, Quốc hội thảo luận ở tổ về chủ trương đầu tư 2 chương trình mục tiêu quốc gia về: hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035; và chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.
Làm rõ nhóm "người yếu thế" trong đối tượng thụ hưởng để tránh trùng lặp
Quan tâm đến chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh (Đoàn TP Đà Nẵng) bày tỏ đồng tình việc tờ trình của Chính phủ đã liệt kê các nhóm đối tượng thụ hưởng, xác định ưu tiên các nhóm đặc thù.
Tuy nhiên, đại biểu đề nghị cần làm rõ nhóm “người yếu thế” là những ai, tránh trùng lặp với các nhóm đã được ưu tiên khác. Việc này không chỉ giúp phân bổ nguồn lực đúng mục tiêu, tránh lãng phí, mà còn bảo đảm minh bạch, công bằng, thống nhất trong triển khai thực hiện.

Đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh. (Ảnh: DUY LINH)
“Để chương trình triển khai hiệu quả, cần định nghĩa cụ thể nhóm “người yếu thế”, thí dụ: người khuyết tật, phụ nữ đơn thân, trẻ em mồ côi, người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, người mất khả năng lao động, hoặc nhóm bị thiệt thòi về tiếp cận dịch vụ xã hội và y tế. Trong số các thành phần, tôi đề nghị chương trình nên bổ sung đối tượng là người khuyết tật”, đại biểu nhấn mạnh.
Theo nữ đại biểu đoàn Đà Nẵng, khi đối tượng thụ hưởng được xác định rõ, các dự án thành phần sẽ dễ thiết kế các hoạt động hỗ trợ phù hợp, từ đó nâng cao tính khả thi và hiệu quả thực tế của chương trình, đặc biệt tại các vùng khó khăn, nơi nhu cầu hỗ trợ thường đa dạng và phức tạp.
Ngoài ra, đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh cũng cho rằng cần thống nhất tiêu chí đánh giá quyền lợi và ưu tiên, bảo đảm tất cả các địa phương thực hiện đồng bộ, tránh tình trạng mỗi nơi hiểu khác nhau, dẫn đến phân bổ nguồn lực không đồng đều, hiệu quả đầu tư giảm. “Đây là bước nền tảng quan trọng để Chương trình mục tiêu quốc gia đạt được mục tiêu về phát triển toàn diện, không bỏ sót đối tượng cần hỗ trợ”, đại biểu nói.
Về 5 dự án thành phần, đại biểu bày tỏ sự thống nhất cao về tên gọi và nội dung chi tiết của các dự án, đồng thời đưa ra một số kiến nghị cụ thể.
Đối với Dự án 1, tiểu dự án 2 - Hỗ trợ nhân lực y tế tại trạm y tế xã, để đánh giá khả năng đạt mục tiêu 4-5 bác sĩ/trạm theo Nghị quyết 72-NQ/TW, đại biểu đề nghị cần đánh giá rõ số lượng bác sĩ hiện đang làm việc tại trạm y tế xã năm 2025. Đồng thời, xem xét cơ chế huy động, bố trí nhân lực, phối hợp liên ngành, cộng đồng, ưu tiên các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa và ứng dụng công nghệ để hỗ trợ việc triển khai thực tế đạt được hiệu quả.
Đối với Dự án 3, tiểu dự án 1 - Khuyến khích sinh đủ hai con, theo đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh, hiện nay, tỷ lệ sinh thay thế giảm chủ yếu do các yếu tố kinh tế, giáo dục, môi trường làm việc chứ không chỉ do thiếu thông tin hay kỹ năng. Vì vậy, các hoạt động tập huấn, hướng dẫn… cần đi kèm giải pháp cụ thể về kinh tế, chăm sóc sức khỏe sinh sản, cơ sở hạ tầng y tế để bảo đảm tính hiệu quả.
Đối với Dự án 3, tiểu dự án 5 - Hỗ trợ phục hồi chức năng và sàng lọc y tế, đại biểu đoàn Đà Nẵng nêu rõ, việc triển khai trên thực tế phụ thuộc lớn vào nhân lực y tế địa phương, trong khi sau khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, nhiều xã (nhất là các đơn vị miền núi) có địa bàn rộng, địa hình phức tạp, dân cư phân tán và nhân lực còn phải đảm nhiệm nhiều chương trình khác. Do đó, cần làm rõ khả năng huy động, bố trí nhân lực, phối hợp liên ngành, ứng dụng công nghệ và cơ chế ưu tiên cho vùng khó khăn để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả.
Ưu tiên giảm nhanh suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em tại các vùng có tỷ lệ cao, vùng miền núi
Cũng quan tâm đến Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, đại biểu Trần Thị Nhị Hà (Đoàn TP Hà Nội) đánh giá các nội dung được nêu trong Chương trình đã bám sát với định hướng tại Nghị quyết 72 của Bộ Chính trị, tập trung cho y tế cơ sở, ưu tiên vùng khó khăn, gắn với chuyển đổi số và quản lý sức khỏe người dân theo vòng đời.

Đại biểu Trần Thị Nhị Hà. (Ảnh: DUY LINH)
Theo đại biểu, dự thảo Nghị quyết đang đặt ra các chỉ tiêu rất cao, trong bối cảnh y tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, từ việc già hóa dân số nhanh, tỷ suất sinh thấp, mất cân bằng giới tính khi sinh, các bệnh không lây nhiễm, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi, béo phì gia tăng. Trong khi đó, nhân lực y tế cơ sở vừa thiếu, vừa yếu, vừa chưa đồng bộ, chênh lệch tiếp cận dịch vụ y tế giữa đô thị, vùng nông thôn vẫn còn rất lớn.
Để những con số được nêu trong Nghị quyết thực sự trở thành mệnh lệnh hành động, bảo đảm tính khả thi và đạt kết quả thực chất khi triển khai, đại biểu Trần Thị Nhị Hà kiến nghị một số nội dung cụ thể.
Về nhóm các mục tiêu liên quan đến hệ thống y tế cơ sở, dự thảo Nghị quyết đưa ra mục tiêu “tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và đạt 95% đến năm 2035”. Đại biểu cho rằng, đây là tiêu chuẩn cao so với tiêu chuẩn chung của các nước có cùng mức thu nhập. Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã của Việt Nam do Bộ Y tế ban hành cũng tiếp cận vấn đề tiêu chí y tế xã rộng hơn, không chỉ quy định về điều kiện đối với trạm y tế.
“Hiện nay, nhiều tỉnh, thành phố có nguồn ngân sách địa phương lớn đã hoàn thành mục tiêu này, thậm chí Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt trên mức 95%, trong khi nhiều địa phương mới chỉ ở mức 70, 80%. Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã cần phải thay đổi phù hợp với mô hình trạm y tế xã phường mới, và Trạm y tế là đơn vị sự nghiệp công lập…”, đại biểu Trần Thị Nhị Hà nêu quan điểm.
Bên cạnh đó, dự thảo Nghị quyết đưa ra mục tiêu: “Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm đầy đủ theo quy trình được hướng dẫn đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035”.

Đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ sáng 25/11. (Ảnh: DUY LINH)
Về nội dung này, đại biểu cho biết, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xác định việc quản lý các bệnh không lây nhiễm tại tuyến cơ sở là năng lực quan trọng nhất trong hệ thống y tế. Mục tiêu trong dự thảo Nghị quyết là rất cao, vượt mức trung bình trong khu vực và các nước có mức thu nhập trung bình tương đương.
“Triển khai được thành công mục tiêu này đòi hỏi phải đầu tư nguồn lực rất bài bản, có các chính sách để bảo đảm nhân lực tại tuyến xã. Thêm nữa, cần triển khai đồng bộ Hồ sơ sức khỏe điện tử gắn với VneID trên tất cả các địa bàn”, đại biểu kiến nghị.
Về nhóm chỉ tiêu liên quan đến dinh dưỡng, dự thảo Nghị quyết đưa ra mục tiêu: “Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%”. Theo đại biểu Nhị Hà, mục tiêu này phù hợp với tiêu chuẩn chung của thế giới, nhưng là một thách thức lớn trong triển khai thực hiện.
Đại biểu dẫn báo cáo gần nhất trên cơ sở số liệu điều tra toàn quốc cho thấy, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi của Việt Nam là 18,2% (tương đương khoảng 1,3 triệu trẻ), tập trung chủ yếu tại các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng núi phía bắc là 37,4%, Tây Nguyên là 28,8%.
Theo đó, để giảm được tỷ lệ xuống dưới 15% trong giai đoạn 5 năm sắp tới, cần phải ưu tiên thực hiện ngay các can thiệp dinh dưỡng như bổ sung vi chất, hỗ trợ dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ, giám sát dinh dưỡng định kỳ và can thiệp sớm. Kinh nghiệm của WHO và WB và một số quốc gia trên thế giới, để thực hiện được mục tiêu này cần phải có một khoản trong chi thường xuyên để chi trực tiếp cho các can thiệp dinh dưỡng. Chi phí hàng năm theo tính toán của WB đối với Việt Nam khoảng từ 1.200 đến 1.500 tỷ đồng mỗi năm.
Đại biểu kiến nghị bổ sung mục tiêu: “Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%. Ưu tiên giảm nhanh tại các vùng có tỷ lệ cao, khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Đồng thời, bổ sung quy định việc phân bổ kinh phí thường xuyên từ 10-12%/năm dành riêng cho chi trả việc bổ sung dinh dưỡng và phòng, chống thấp còi, trong đó ưu tiên 80% cho vùng khó khăn, miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số.












