Đến 2030, sẽ có thêm 21.000ha quy hoạch thành vùng nguyên liệu Sâm Việt Nam tại 9 tỉnh
Chương trình phát triển Sâm Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 sẽ dành 21.000 ha tại 9 địa phương để phát triển cây sâm Ngọc Linh và sâm Lai Châu.
Từ năm 2030, sản lượng khai thác đạt 300 tấn Sâm Việt Nam/năm
Theo Quyết định số 611/QĐ-TTg về Chương trình phát triển Sâm Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, các địa phương có tiềm năng, thế mạnh về điều kiện tự nhiên phù hợp cho việc nuôi trồng, phát triển Sâm Việt Nam, gồm các tỉnh: Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng, Thừa Thiên Huế, Nghệ An, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên. Trong đó, phát triển vùng nguyên liệu Sâm Việt Nam quy mô hàng hóa tại các tỉnh: Quảng Nam, Kon Tum (Sâm Ngọc Linh) và Lai Châu (Sâm Lai Châu).
Chương trình nhằm xây dựng và phát triển Sâm Việt Nam thành ngành hàng có giá trị kinh tế cao, là sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực y - dược và chăm sóc sức khỏe, mang thương hiệu sản phẩm quốc gia; góp phần tạo việc làm, thu nhập cho người dân, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tiến trình phát triển cây Sâm Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2030 sẽ tập trung bảo tồn nguồn gen Sâm Việt Nam ngoài tự nhiên gắn với bảo vệ, phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học trong hệ sinh thái rừng; phấn đấu diện tích trồng Sâm Việt Nam đạt khoảng 21.000 ha vào năm 2030, 100% diện tích trồng Sâm Việt Nam được cấp mã số vùng trồng và chỉ dẫn địa lý.
Về sản lượng khai thác, từ năm 2030 đạt khoảng 300 tấn Sâm Việt Nam/năm (diện tích khai thác khoảng 1.000 ha/năm), đảm bảo nguồn gốc xuất xứ, đạt tiêu chuẩn GACP - WHO (thực hành tốt nuôi trồng và thu hái) hoặc tương đương.
Lãnh đạo tỉnh Quảng Nam kiểm tra vùng ươm trồng cây dược liệu
Bên cạnh đó, tập trung đầu tư, xây dựng các cơ sở sơ chế và chế biến sâu các sản phẩm từ Sâm Việt Nam gắn với vùng nguyên liệu, sản xuất theo chuỗi, trong đó có khoảng 50% cơ sở sản xuất sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng GMP-WHO (thực hành sản xuất tốt).
Giai đoạn định hướng đến năm 2045, sẽ phát triển Sâm Việt Nam trở thành ngành hàng mang thương hiệu quốc tế, có giá trị xuất khẩu cao, tạo nguồn thu quan trọng cho các địa phương, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước sản xuất Sâm lớn trên thế giới.
Theo chương trình, Sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv), Sâm Lai Châu (Panax vietnamensis var. fiscidiscus K.Komatsu, S.Zhu & S.Q.Cai) sẽ được bảo tồn, phát triển, chế biến, thương mại ở quy mô hàng hóa. Riêng đối với Sâm Lang Biang (Panax vietnamensis var. langbianensis N.V.Duy, V.T.Tran&L.N.Trieu) và Sâm Puxailaileng (Panax sp) sẽ được bảo tồn, gây trồng, phát triển quy mô thử nghiệm ở khu vực có điều kiện tự nhiên phù hợp.
Quỹ đất dự kiến để gây trồng, phát triển Sâm Việt Nam phục vụ mục tiêu sản xuất, kinh doanh tại Chương trình này bao gồm: gây trồng, phát triển dưới tán rừng phòng hộ, rừng sản xuất theo phương thức sản xuất lâm, nông kết hợp theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp, đất trồng cây nông nghiệp.
Bảo vệ nguồn gen gắn liền với truy xuất nguồn gốc
Để đảm bảo việc bảo tồn và phát triển Sâm Việt Nam, Chính phủ giao Bộ NN&PTNT chủ trì, phối hợp với Bộ TN&MT, Bộ Y tế, Bộ KH&CN và UBND các tỉnh trong phạm vi Chương trình triển khai việc đánh giá các loài Sâm Việt Nam có phân bố trong rừng tự nhiên thuộc các tỉnh: Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng, Thừa Thiên Huế, Nghệ An, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên về: phân bố, loài (phân tích gen), diện tích, trữ lượng và đề xuất vùng trồng thích hợp; xây dựng vùng bảo tồn nguyên vị (in situ) và vườn sưu tập (ex situ) nguồn gen cây Sâm Việt Nam tại một số vùng sinh thái điển hình có phân bố tự nhiên, ưu tiên ở các tỉnh Quảng Nam, Kon Tum, Lâm Đồng, Nghệ An, Lai Châu. Đặc biệt, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về bảo tồn, phát triển nguồn gen các loài Sâm Việt Nam và xác định vùng trồng thích hợp.
Diện tích trồng Sâm Ngọc Linh dưới tán rừng ở Quảng Nam
Các địa phương phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, chọn, tạo giống Sâm Việt Nam, trong đó tập trung chọn, tạo giống Sâm Ngọc Linh, Sâm Lai Châu có năng suất, chất lượng cao, chống chịu với sâu, bệnh hại; hình thành các cơ sở sản xuất giống hiện đại tại các địa phương trên cơ sở xác định cụ thể về quy mô diện tích vùng trồng Sâm Việt Nam phù hợp, đảm bảo hiệu quả, trong đó ưu tiên tại các tỉnh Quảng Nam, Kon Tum, Lai Châu, đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa với khả năng cung ứng cây giống cho phát triển vùng nguyên liệu bình quân khoảng 2.000 ha/năm; hoàn thiện các quy trình sản xuất giống và quy trình canh tác Sâm Việt Nam phục vụ gây trồng, phát triển vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất, đồng thời xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, kiểm soát nguồn gốc giống Sâm Việt Nam đảm bảo hợp pháp theo quy định hiện hành.
Để cây Sâm Việt Nam trở thành sản phẩm kinh tế có giá trị, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thúc đẩy chế biến, kinh doanh các sản phẩm Sâm Việt Nam bền vững theo chuỗi giá trị; đầu tư, phát triển các cơ sở chế biến Sâm gắn với vùng nguyên liệu theo hướng hiện đại; ưu tiên đầu tư nhà máy sản xuất các sản phẩm từ Sâm Việt Nam bao gồm: thuốc, thực phẩm bảo vệ sức khỏe, hóa mỹ phẩm, sản phẩm thực dưỡng.., trong đó tỷ lệ các doanh nghiệp, cơ sở chế biến Sâm đạt tiêu chuẩn chất lượng GMP - WHO (hướng dẫn thực hành sản xuất tốt) hoặc tương đương đạt ít nhất 50%. Nghiên cứu, đầu tư phát triển công nghiệp dược tại tỉnh Quảng Nam, với Sâm Việt Nam là cây chủ lực.
Sàn thương mại điện tử Sâm Ngọc Llinh ở Quảng Nam
Đặc biệt, phát triển, đa dạng hóa sản phẩm Sâm Việt Nam theo chuỗi giá trị, đạt khoảng 50 - 80 sản phẩm vào năm 2030; phát triển các kênh giới thiệu, phân phối sản phẩm ở trong và ngoài nước; đồng thời thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc dược liệu Sâm Việt Nam, đảm bảo các sản phẩm có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng; khuyến khích các tổ chức hình thành các phòng kiểm định nguồn gốc, chất lượng Sâm Việt Nam đạt tiêu chuẩn GLP tại các vùng trọng điểm nuôi trồng và chế biến sản phẩm Sâm…
Dự kiến, Chương trình phát triển Sâm Việt Nam đến năm 2030 có tổng diện tích 21.000 ha; trong đó diện tích dưới tán rừng phòng hộ là 15.189 ha; dưới tán rừng sản xuất 5.788 ha; trên đất nông nghiệp khác 23 ha. Các địa phương được xác định có diện tích lớn triển khai Chương trình là: Quảng Nam 8.400 ha; KonTum 8.180 ha; Lai Châu 3.000 ha.