Đền Tiên La - nơi nữ Đại tướng Tiên phong của Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa

Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) là nơi bà Vũ Thị Thục trốn sự bắt bớ, truy lùng của Thái thú Tô Định. Với nợ nước thù nhà (cha bà bị Tô Định giết hại), tại đây, bà đã lập căn cứ, chiêu tập binh mã, dựng cờ khởi nghĩa, giải phóng được một vùng rộng lớn. Sau đó, bà về phó tá Hai Bà Trưng đánh giặc và được cử làm Đại tướng Tiên phong, được phong là 'Bát Nàn Đại tướng quân'.

Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) được xây dựng trên gò Kim Quy với diện tích gần 6.000m2. Tương truyền, đây là nơi bà Vũ Thị Thục (vốn người ở Trang Phượng Lâu, nay thuộc TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) trốn sự bắt bớ, truy lùng của Thái thú Tô Định.

Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) được xây dựng trên gò Kim Quy với diện tích gần 6.000m2. Tương truyền, đây là nơi bà Vũ Thị Thục (vốn người ở Trang Phượng Lâu, nay thuộc TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) trốn sự bắt bớ, truy lùng của Thái thú Tô Định.

Đền Tiên La (xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) nơi thờ Bát Nàn Đại tướng quân Vũ Thị Thục - nữ Đại tướng Tiên phong của Hai Bà Trưng.

Bà Vũ Thị Thục, còn gọi Thục Nương - là con gái của cụ Vũ Công Chất và cụ Hoàng Thị Mầu (ở Trang Phượng Lâu). Càng lớn lên càng xinh đẹp, bà được cha mẹ hứa gả cho Phạm Hương, Quận trưởng Nam Chân. Vốn háo sắc nên khi biết tin, Thái thú Tô Định đã mời cụ Vũ Công Chất và Phạm Hương vào kinh ép từ hôn và ép gả. Bị cự tuyệt, hắn tìm cách giết hại 2 người, sau đó cho quân về Phượng Lâu lùng bắt bà.

Bà Vũ Thị Thục, còn gọi Thục Nương - là con gái của cụ Vũ Công Chất và cụ Hoàng Thị Mầu (ở Trang Phượng Lâu). Càng lớn lên càng xinh đẹp, bà được cha mẹ hứa gả cho Phạm Hương, Quận trưởng Nam Chân. Vốn háo sắc nên khi biết tin, Thái thú Tô Định đã mời cụ Vũ Công Chất và Phạm Hương vào kinh ép từ hôn và ép gả. Bị cự tuyệt, hắn tìm cách giết hại 2 người, sau đó cho quân về Phượng Lâu lùng bắt bà.

Hay tin, bà gửi mẹ, giả về chấp lệnh lên kiệu, bất ngờ dùng đôi kiếm bạc phá vòng vây mở đường ra bến sông thấy thuyền vô chủ. Bà bèn xuống thuyền, chèo mải miết, ròng rã 1 ngày đêm thì đến hương Đa Cương (nay thuộc xã Đoan Hùng). Tại đây, bà đã lập căn cứ, chiêu tập binh mã, dựng cờ khởi nghĩa, tự xưng là “Bát Nàn đại tướng quân”, tổ chức cho nhân dân phát triển nông nghiệp, xây dựng lực lượng vững chắc.

Hay tin, bà gửi mẹ, giả về chấp lệnh lên kiệu, bất ngờ dùng đôi kiếm bạc phá vòng vây mở đường ra bến sông thấy thuyền vô chủ. Bà bèn xuống thuyền, chèo mải miết, ròng rã 1 ngày đêm thì đến hương Đa Cương (nay thuộc xã Đoan Hùng). Tại đây, bà đã lập căn cứ, chiêu tập binh mã, dựng cờ khởi nghĩa, tự xưng là “Bát Nàn đại tướng quân”, tổ chức cho nhân dân phát triển nông nghiệp, xây dựng lực lượng vững chắc.

Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa (tháng 3, năm 40 sau Công nguyên) đã cho người về khuyến dụ hợp sức. Bà đã cùng các tướng lĩnh kéo về Mê Linh hội quân dưới trướng của Hai Bà Trưng và được cử làm Đại tướng Tiên phong. Sau khi đánh đuổi lực lượng cai trị nhà Đông Hán ra khỏi nước ta, Hai Bà Trưng lên ngôi xưng vương, đóng đô ở Mê Linh, thiết lập chính quyền tự chủ. Với công lao và thành tích xuất sắc, bà được Hai Bà Trưng phong tước hàm Đông Nhung Đại tướng quân.

Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa (tháng 3, năm 40 sau Công nguyên) đã cho người về khuyến dụ hợp sức. Bà đã cùng các tướng lĩnh kéo về Mê Linh hội quân dưới trướng của Hai Bà Trưng và được cử làm Đại tướng Tiên phong. Sau khi đánh đuổi lực lượng cai trị nhà Đông Hán ra khỏi nước ta, Hai Bà Trưng lên ngôi xưng vương, đóng đô ở Mê Linh, thiết lập chính quyền tự chủ. Với công lao và thành tích xuất sắc, bà được Hai Bà Trưng phong tước hàm Đông Nhung Đại tướng quân.

Năm 41 sau Công nguyên, vua Đông Hán sai Mã Viện chỉ huy mấy chục vạn quân tinh nhuệ sang đánh chiếm nước ta. Sau nhiều tháng giao tranh quyết liệt, thế giặc quá mạnh, các cánh quân của Hai Bà Trưng lần lượt tan vỡ. Sau khi Hai Bà Trưng mất (năm 43), duy nhất chỉ còn lại đội quân tinh nhuệ của Đông Nhung Đại tướng quân Vũ Thị Thục lui về vùng Đa Cương cầm cự, cố thủ. Đến tháng 8 cùng năm, quân Đông Hán đã tập trung toàn bộ lực lượng bao vây nghĩa quân, sau 39 ngày đêm giao chiến ác liệt, quân lương cạn kiệt, bà Vũ Thị Thục và toàn bộ binh sĩ đã hy sinh anh dũng tại gò Kim Quy bên dòng sông Tiên Hưng (thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà ngày nay).

Năm 41 sau Công nguyên, vua Đông Hán sai Mã Viện chỉ huy mấy chục vạn quân tinh nhuệ sang đánh chiếm nước ta. Sau nhiều tháng giao tranh quyết liệt, thế giặc quá mạnh, các cánh quân của Hai Bà Trưng lần lượt tan vỡ. Sau khi Hai Bà Trưng mất (năm 43), duy nhất chỉ còn lại đội quân tinh nhuệ của Đông Nhung Đại tướng quân Vũ Thị Thục lui về vùng Đa Cương cầm cự, cố thủ. Đến tháng 8 cùng năm, quân Đông Hán đã tập trung toàn bộ lực lượng bao vây nghĩa quân, sau 39 ngày đêm giao chiến ác liệt, quân lương cạn kiệt, bà Vũ Thị Thục và toàn bộ binh sĩ đã hy sinh anh dũng tại gò Kim Quy bên dòng sông Tiên Hưng (thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà ngày nay).

Ghi nhớ công lao của bà, nhân dân đã suy tôn bà là “Mẫu Thượng Ngàn Tái Thế” và lập đền thờ (gọi là Đền Tiên La) để các thế hệ cháu con hương khói, tưởng nhớ nữ tướng anh hùng của dân tộc. Các triều đại sau đều có truy phong bà làm thần: Đời Lê Thánh tông, sắc phong “Ý đức đoan trang Trinh thục công chúa”; Đời Minh Mạng nhà Nguyễn sắc phong “Dực bảo trung hưng linh phù chi thần”; Đời Khải Định sắc phong “Dực bảo trung hưng linh phù thượng đẳng thần”.

Ghi nhớ công lao của bà, nhân dân đã suy tôn bà là “Mẫu Thượng Ngàn Tái Thế” và lập đền thờ (gọi là Đền Tiên La) để các thế hệ cháu con hương khói, tưởng nhớ nữ tướng anh hùng của dân tộc. Các triều đại sau đều có truy phong bà làm thần: Đời Lê Thánh tông, sắc phong “Ý đức đoan trang Trinh thục công chúa”; Đời Minh Mạng nhà Nguyễn sắc phong “Dực bảo trung hưng linh phù chi thần”; Đời Khải Định sắc phong “Dực bảo trung hưng linh phù thượng đẳng thần”.

Đến nay đã qua hơn 1.985 năm, đền thờ và mộ phần của nữ Đại tướng Tiên phong vẫn được giữ vẹn nguyên. Trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, đền thờ ngày càng trở nên khang trang, bề thế. Ngày nay, đền có kiến trúc cổ “tiền Nhất, hậu Đinh” gồm các công trình chính như: Tam Quan Ngoại, Tam Quan Nội, Tiền Tế, Trung Tế, Hậu Cung.

Đến nay đã qua hơn 1.985 năm, đền thờ và mộ phần của nữ Đại tướng Tiên phong vẫn được giữ vẹn nguyên. Trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, đền thờ ngày càng trở nên khang trang, bề thế. Ngày nay, đền có kiến trúc cổ “tiền Nhất, hậu Đinh” gồm các công trình chính như: Tam Quan Ngoại, Tam Quan Nội, Tiền Tế, Trung Tế, Hậu Cung.

Nhà Tiền tế gồm 5 gian, được kiến trúc bằng gỗ tứ thiết, nội thất được trạm trổ công phu với các họa tiết như: “Long - Lân - Quy - Phụng” đan xen “Tùng - Cúc - Trúc - Mai”. Các bức đại tự tại đây có nội dung ca ngợi triều đại Trưng Vương và đức hạnh, tài sắc vẹn toàn của nữ Đại tướng Tiên phong.

Tòa Trung Tế được xây dựng kiểu nhà phương đình, kiến trúc “chồng diêm cổ các”. Điều đặc biệt, toàn bộ vật liệu xây dựng đều bằng đá, các hệ thống cột, kèo được chạm khắc tinh xảo.

Tòa Trung Tế được xây dựng kiểu nhà phương đình, kiến trúc “chồng diêm cổ các”. Điều đặc biệt, toàn bộ vật liệu xây dựng đều bằng đá, các hệ thống cột, kèo được chạm khắc tinh xảo.

Tòa Hậu Cung được kiến trúc bằng gỗ thứ thiết, gồm 3 gian, trong đó gian giữa là ngai và tượng thờ Bát Nàn Đại tướng quân Vũ Thị Thục. Hai gian bên cạnh thờ thân mẫu và thân phụ của bà. Trên nóc hậu cung treo bức đại tự “Vạn Cổ Anh Linh” (nghĩa là Muôn thuở linh thiêng). Tương truyền, đây còn là nơi đặt phần mộ của bà.

Lầu Cô, Lầu Cậu.

Năm nay, nhân dịp kỷ niệm 1985 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 2025) và kỷ niệm 115 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, Đoàn công tác của Hội LHPN huyện Hưng Hà đã đến thắp hương, dâng lễ viếng nhằm tưởng nhớ đến công lao của nữ tướng

Năm nay, nhân dịp kỷ niệm 1985 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 2025) và kỷ niệm 115 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, Đoàn công tác của Hội LHPN huyện Hưng Hà đã đến thắp hương, dâng lễ viếng nhằm tưởng nhớ đến công lao của nữ tướng

Ngoài đền thờ chính thờ bà ở xã Đoan Hùng, ngay phía bên kia bờ sông Tiên Hưng còn có đền Buộm (xã Tân Tiến) cũng thờ bà. Cả 2 ngôi đền đều được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Ngoài đền thờ chính thờ bà ở xã Đoan Hùng, ngay phía bên kia bờ sông Tiên Hưng còn có đền Buộm (xã Tân Tiến) cũng thờ bà. Cả 2 ngôi đền đều được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Với những giá trị văn hóa và lịch sử độc đáo, năm 2016, Lễ hội Tiên La được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Lễ hội được tổ chức từ ngày mồng 10 đến 20/3 (âm lịch) hằng năm. Trong đó, ngày 17/3 âm lịch (ngày mất của tướng quân Vũ Thị Thục) là chính hội, để tưởng nhớ công ơn của bà. Đây cũng là dịp để nhân dân địa phương, du khách thập phương chiêm bái, tìm về cội nguồn cũng như lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đồng thời bày tỏ lòng tri ân với những người đã hy sinh vì quê hương, đất nước.

Với những giá trị văn hóa và lịch sử độc đáo, năm 2016, Lễ hội Tiên La được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Lễ hội được tổ chức từ ngày mồng 10 đến 20/3 (âm lịch) hằng năm. Trong đó, ngày 17/3 âm lịch (ngày mất của tướng quân Vũ Thị Thục) là chính hội, để tưởng nhớ công ơn của bà. Đây cũng là dịp để nhân dân địa phương, du khách thập phương chiêm bái, tìm về cội nguồn cũng như lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đồng thời bày tỏ lòng tri ân với những người đã hy sinh vì quê hương, đất nước.

Trường Hùng

Nguồn Phụ Nữ VN: https://phunuvietnam.vn/den-tien-la-noi-nu-dai-tuong-tien-phong-cua-hai-ba-trung-dung-co-khoi-nghia-20250304215853651.htm