Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử
Nếu như Tây Bắc có 'tứ đại danh đèo': Mã Pí Lèng, Ô Quy Hồ, Pha Đin, Khau Phạ thì vùng duyên hải miền Trung lên đại ngàn Tây Nguyên cũng có 'ngũ danh đèo': An Khê, Phượng Hoàng, Khánh Lê, Ngoạn Mục, Violak.
Trong đó, đèo An Khê là danh thắng mang dấu ấn lịch sử sâu sắc kết nối 2 vùng đất Bình Định và Gia Lai.
Người Bahnar Ala Kông gọi đèo An Khê là đèo Mang, nghĩa là “cái cổng” để vượt từ vùng đồng bằng duyên hải lên miền sơn cước, miền đất của cư dân vùng Bắc Tây Nguyên. Về phía Tây, đi qua cao nguyên An Khê tiếp nối một con đèo cao hơn là Mang Yang (cổng trời) để lên cao nguyên Pleiku và đến miền biên viễn giáp với đất nước chùa Tháp (Campuchia).

Đèo An Khê. Ảnh: Phan Nguyên
Về mặt địa lý, những dãy núi phía Đông Trường Sơn trùng điệp theo hướng Bắc-Nam đã chia cắt phần đất này làm 2 miền: miền ngược và miền xuôi. Ngày xưa, cư dân xứ Quy Ninh (miền đồng bằng Bình Định ngày nay) giao thương với người sơn cước bằng 2 con đường: đường bộ (vượt qua đèo An Khê) và đường sông (lên thượng nguồn sông Côn). Từ đó, người Bình Định có câu: “Ai về nhắn với nậu nguồn/Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên”. Trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, “nguồn” để chỉ địa danh vùng thượng du, tương đương như 1 tổng ở đồng bằng.
Đánh giá các sản vật từ nậu nguồn đưa về đồng bằng Quy Nhơn ngày ấy, trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú đã ghi nhận: “Sản vật có nhiều như trầm hương, tốc hương, sừng tê, ngà voi, vàng bạc, sáp ong và các thứ gỗ đều tốt”. Điều đó chứng tỏ, từ thời phong kiến, việc giao thương, vận chuyển hàng hóa, các sản vật quý từ núi rừng về đồng bằng Bình Định ngày nay, rồi theo các tàu buôn đường biển tỏa đi khắp nơi trong nước và nước ngoài.
Trước khi con đường qua đèo An Khê được hình thành theo dự án mở mang quốc lộ 19 lên Tây Nguyên thì nó chỉ là con đường mòn nhỏ hẹp, ít người mạo hiểm để vượt những con dốc dài quanh co, đá lởm chởm, cây cối rậm rạp và nhiều thú dữ.
Trong sách “Nước non Bình Định”, Quách Tấn có nhắc đến con đường mòn ở đèo An Khê, bấy giờ gọi là đèo Vĩnh Viễn, với độ cao khoảng 740 m, dài 10 km, rất khó đi. Dấu tích mà mọi người thường nhắc đến khi leo đèo, ngoài dốc Chàng Hảng, còn có ngoẹo cây khế, ngoẹo cây ké, cây cầy cổ thụ mà khách bộ hành thường ngồi nghỉ chân.
Do vậy hồi ấy, việc giao thương, gánh gồng, mang vác hàng hóa, thương nhân miền xuôi và cư dân miền ngược thường đi lại qua đèo Vạn Tuế, phía Vĩnh Thạnh và Cửu An, cách đèo An Khê ngày nay khoảng 10 km về phía Bắc, nơi có hòn Ông Bình; phía Tây thôn Thượng Giang có con đường đèo Đồng Hào ở ngả Đông lên Trạm Gò, nằm phía Tây Bắc An Sơn, nơi cất giấu quân lương thời Tây Sơn.
Vào giữa thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong mới đưa những người Kinh đầu tiên vượt đèo lên vùng sơn cước lập ấp Tây Sơn (bấy giờ thuộc huyện Tuy Viễn, phủ Quy Ninh (năm 1742 mới đổi thành phủ Quy Nhơn). “Ấp Tây Sơn có 2 ấp Nhất và Nhì, nay là 2 thôn An Khê và Cửu An, đất Quy Ninh, nay là Hoài Nhơn” (Đại Nam chính biên liệt truyện).
Đến thời Tây Sơn Tam kiệt tụ nghĩa, lấy An Khê làm đại bản doanh tập hợp nghĩa sĩ, thu phục nhân tâm người bản địa, chuẩn bị lương thực, khí tài và rèn quân chuẩn bị chinh Nam phạt Bắc thì việc đi lại giữa vùng Tây Sơn Hạ đạo và Tây Sơn Thượng đạo thường xuyên với mật độ dày hơn. Khắp các con đường đèo từ Vạn Tuế đến đèo Vĩnh Viễn (An Khê), hòn Ông Bình, hòn Ông Nhạc… là mật khu với những nơi đồn binh, kho quân lương, căn cứ Xóm Ké… luôn được canh giữ cẩn mật, tránh tai mắt của địch. Chính nhờ những dãy núi dựng đứng với đèo cao chắn ngang lối lên sơn phòng mà bảo vệ được vùng căn cứ địa một cách vững chắc.
Ngày nay, người ta còn nhắc đến một truyền thuyết về Nguyễn Huệ nhận được Ô Long đao từ cặp rắn hổ mun ở giữa đèo An Khê, khi ông đang dẫn quân vượt đèo về hạ đạo. Câu chuyện đã đề cập tấm lòng của người dân bấy giờ luôn hướng về ngọn cờ khởi nghĩa của Tây Sơn, đồng thời tin rằng, linh khí vẫn còn đang vượng ở những ngọn núi giáp ranh vùng An Khê-Bình Định ngày nay.

Đèo An Khê. Ảnh: Phan Nguyên
Dưới thời nhà Nguyễn, nhận thấy tiềm năng cả về mặt kinh tế và quân sự phía cao nguyên An Khê, các quan lại được phái đến để mộ dân từ vùng duyên hải vượt đèo cao đến An Sơn khai hoang lập làng định cư.
Theo “Lịch sử khai khẩn cao nguyên An Khê” của Andrew Hardy, những năm 1864-1888, triều đình Huế đã mở 3 đợt di dân lên An Sơn để khai hoang, mở rộng địa bàn, khẳng định quyền kiểm soát một phần miền núi phía Tây Bình Định. Tuy nhiên, bấy giờ, đèo An Khê vẫn chưa được khai mở, còn là vật cản gây khó khăn cho việc đi lại, giao thương giữa miền xuôi và miền ngược.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp âm mưu chiếm cứ vùng Tây Nguyên lâu dài nhằm khai thác tài nguyên phục vụ mẫu quốc, chúng bắt đầu mở các con đường từ duyên hải miền Trung lên cao nguyên Trung phần, trong đó có quốc lộ 19. Từ đó, con đường qua đèo An Khê được hình thành, cánh cổng lên thượng nguồn đến vùng biên cương đã mở.
Những năm chiến tranh chống Pháp, đèo An Khê trở thành cửa ngõ để địch từ cao nguyên đánh xuống đồng bằng Bình Định. Những trận chiến giằng co giữa quân đội ta và lính Pháp thường xuyên xảy ra trên vùng đất này. Lịch sử còn ghi lại tiếng bom anh hùng Ngô Mây bên suối Vối gần đèo An Khê tiêu diệt cánh quân Pháp càn xuống đồng bằng đã gây tiếng vang lớn, khiến thực dân Pháp khiếp sợ.
Quân và dân Gia Lai trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, từ vùng tản cư trên đất Bình Định đã vượt đèo An Khê trở lại lập căn cứ tại Xóm Ké, từng bước tiến công đánh địch, giải phóng vùng đất Gia Lai thân yêu.
Đặc biệt, trong chiến tranh chống Mỹ, tháng 4-1972, quân đội ta đã lập một kỳ tích tại đỉnh cao (Hill 638) còn gọi là Hòn Bùi ở đèo An Khê, nơi Sư đoàn Mãnh Hổ (Nam Triều Tiên) khét tiếng chiếm đóng. Trận đánh có tiếng vang lớn của đơn vị thuộc Sư đoàn 3 Sao Vàng đã gây một cú sốc để lại dấu ấn khó phai mờ cho lính đánh thuê Nam Hàn và quân đội viễn chinh Mỹ.
Ngày nay, tấm bia đá của Sư đoàn Mãnh Hổ vẫn còn nguyên vẹn trên đỉnh cao đèo An Khê. Theo Thạc sĩ Nguyễn Quang Tuệ, người đã từng đưa Giáo sư Ju Hung Shim (Trường Đại học Quốc gia Inchoen-Hàn Quốc) đến thăm chiến trường xưa và tấm bia lịch sử này cho biết: “…Phần lớn các bài viết, công trình nghiên cứu, tác phẩm báo chí, văn học nghệ thuật từ Anh, Mỹ hoặc Hàn Quốc mà chúng tôi tham khảo được đều cho thấy trận chiến đèo An Khê hồi tháng 4-1972 là một ám ảnh suốt nhiều chục năm đối với những người trong cuộc và thân nhân của họ”.
Từ sau ngày thống nhất đất nước (1975) đến nay, đèo An Khê nói riêng và quốc lộ 19 nói chung luôn được quan tâm đầu tư nâng cấp, mở rộng. Trong tương lai, đèo An Khê không còn là trở ngại cho việc thông thương mà là điểm kết nối giữa 2 miền của tỉnh Gia Lai mới.
Nguồn Gia Lai: https://baogialai.com.vn/deo-an-khe-dau-an-lich-su-post330329.html