Dệt may gặp hàng loạt lực cản, mục tiêu xuất khẩu sẽ sụt giảm bao nhiêu tỷ USD?

Ngành dệt may Việt Nam bước vào những tháng cuối năm 2025 với nhiều thách thức đan xen. Sức mua toàn cầu suy yếu, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung và các yêu cầu ngày càng nghiêm ngặt về thời trang xanh tiếp tục tạo sức ép lên doanh nghiệp. Cùng với đó, mưa lũ kéo dài tại miền Trung và miền Bắc khiến nhiều nhà máy bị ngập, giao hàng chậm, làm tăng thêm rủi ro và chi phí cho toàn ngành.

Theo số liệu của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam tháng 10 ước đạt 3,73 tỷ USD, giảm 1,9% so với tháng 9 và 2,2% so cùng kỳ năm trước.

Tính chung, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 10 tháng 2025 ước đạt 38,33 tỷ USD, tăng 6,3% so cùng kỳ 2024.

Tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may của Việt Nam 10 tháng 2025 ước đạt 21,11 tỷ USD, tăng 2,6% so cùng kỳ 2024.

(Nguồn: VITAS).

(Nguồn: VITAS).

Dự kiến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may ước đạt 46 tỷ USD, tăng 5,6% so với năm 2024, đạt 97,9% so với mục tiêu VITAS đã đề ra hồi cuối năm ngoái.

Chia sẻ tại buổi Họp báo cho sự kiện đại hội nhiệm kỳ VII (2025 - 2030) và Tổng kết Hiệp hội Dệt may Việt Nam 2025 sáng ngày 25/11, ông Vũ Đức Giang, chủ tịch VITAS cho biết cuối năm ngoái, ngành dệt may đặt mục tiêu xuất khẩu 48 tỷ USD cho năm 2025. Tuy nhiên, việc Mỹ bất ngờ áp dụng biện pháp thuế quan đã ảnh hưởng đến kết quả thực hiện thực tế. Theo đó, căng thẳng Mỹ - Trung Quốc ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu sợi sang Trung Quốc.

Trước đây Việt Nam xuất khẩu lượng sợi rất lớn sang Trung Quốc, một năm trên 4 tỷ USD, có năm trên 8 tỷ USD. Tuy nhiên, khi Mỹ áp dụng chính sách bông Tân Cương nên mặt hàng này của Trung Quốc không thể dùng cho sản xuất vải để xuất khẩu sang Mỹ.

Do đó, họ phải dùng bông Tân Cương để phục vụ sản xuất hàng trong nước và xuất khẩu sang các thị trường khác, kéo theo lượng nhập khẩu sợi từ Việt Nam giảm sút.

“Năm vừa rồi lượng sợi xuất khẩu sang Trung Quốc giảm khoảng 2 tỷ USD”, ông Giang cho biết.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam chịu áp lực lớn trong việc phải nhận đơn hàng sản xuất trong thời gian rất ngắn, trước khi mức thuế đối ứng có hiệu lực. Đồng thời, cách thức mua hàng của các nhà nhập khẩu cũng thay đổi.

Ngoài ra, sức mua toàn cầu giảm trong năm 2025 đã ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu hàng dệt may bởi người tiêu dùng thắt hầu bao. Bên cạnh đó, các chính sách về thời trang xanh, giảm phát thải cũng đang tạo áp lực cho ngành.

Tình hình thiên tai, lũ lụt ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, giao hàng của một số đơn vị. Trong thời gian vừa qua có nhiều nhà máy dệt may đã bị ngập. Một số nhà máy hiện vẫn chưa thể khôi phục sản xuất.

“Tôi cho rằng mức giảm 2 tỷ USD so với kế hoạch đầu năm là điều tất yếu, chúng ta phải chấp nhận luật chơi toàn cầu. Và năm 2026, chúng tôi cũng chỉ đưa ra con số mục tiêu tương đối phù hợp xu thế”, ông Giang nói

Ông Giang cho biết ngành dệt may đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 48 - 49 tỷ USD, cao hơn con số ước thực hiện của năm 2025 là 2 - 3 tỷ USD.

Trong năm 2026, ngành dệt may sẽ đẩy mạnh chiến lược đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Hiện tại Việt Nam đang xuất khẩu hàng dệt may sang 138 thị trường. Trong đó, Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc là những thị trường trọng yếu. Ngoài ra, các doanh nghiệp bắt đầu đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường Châu Phi, Trung Đông.

Chia sẻ với phóng viên, một số doanh nghiệp dệt may tại miền Trung và miền Bắc cho biết, mưa lũ kéo dài trong tháng 9-10/2025 đã khiến tiến độ sản xuất và giao hàng chậm đáng kể. Nhiều nhà máy bị ngập, đặc biệt là các xưởng may nằm gần khu công nghiệp ven sông, khiến máy móc, kho nguyên liệu và bán thành phẩm bị hư hại và kéo dài thời gian khôi phục. Một số đơn hàng buộc phải trễ lịch giao từ 1-3 tuần; khách hàng có đơn chấp nhận lùi lịch, nhưng cũng có trường hợp yêu cầu giảm sản lượng hoặc điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất. Chi phí logistics nội địa tăng mạnh do đường giao thông bị chia cắt, container phải đổi hướng, bù tuyến hoặc chờ thông đường, trong khi nguyên phụ liệu nhập khẩu cũng về chậm vì một số cảng biển miền Trung và miền Bắc tạm ngừng khai thác khi mưa lũ lên cao.

Một lãnh đạo doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may tại Huế cho biết: "Tháng 10 vừa qua đơn vị có bốn chuyến hàng phải trì hoãn giao do nước lũ tràn vào nhà máy, công nhân phải nghỉ từ ba đến năm ngày khiến tiến độ bị kéo lùi, dẫn đến đơn hàng tháng 11 bị dồn sang tháng 12". Tuy khách hàng thông cảm, nhưng không tránh khỏi tốn thất do hàng hóa hư hỏng.

Tại Đà Nẵng, một doanh nghiệp lớn trong ngành cũng ghi nhận lượng đơn đặt hàng cuối năm chậm lại do khách hàng quốc tế lo ngại rủi ro thiên tai và chuyển sang đặt đơn nhỏ, rải rác để thăm dò.

Doanh nghiệp dệt may cần tối ưu hóa lợi thế của EVFTA

Tại Tọa dàm “Ngành dệt may tận dụng EVFTA để ứng phó với chính sách thuế đối ứng như thế nào?” vừa được tổ chức, bà Nguyễn Hoàng Thúy, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Thụy Điển, kiêm nhiệm Bắc Âu cho biết, trong thách thức liên quan đến chính sách thuế đối ứng của Mỹ, EVFTA đang mở ra một cánh cửa mới giúp ngành dệt may Việt Nam giảm rủi ro thị trường, đồng thời hướng đến mô hình sản xuất xanh và bền vững hơn theo tiêu chuẩn châu Âu.

Bà Thúy cho rằng, thay vì cạnh tranh bằng giá, doanh nghiệp Việt Nam cần chuyển sang các dòng sản phẩm giá trị cao, truy xuất rõ nguồn gốc, đảm bảo tiêu chuẩn môi trường và lao động đúng với thị hiếu tiêu dùng xanh đang chi phối toàn bộ châu Âu. Khi đi vào hoạt động, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi trực tiếp, vừa đáp ứng quy tắc xuất xứ EVFTA, vừa giảm phụ thuộc nhập khẩu và phát thải carbon.

Theo ông Phạm Như Phương, Trưởng phòng Xuất nhập khẩu ngành hàng, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, EU hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của ngành dệt may Việt Nam, và Hiệp định EVFTA đang mở ra một “cánh cửa thứ hai” giúp ngành dệt may Việt Nam giảm rủi ro thị trường, đồng thời hướng đến mô hình sản xuất xanh và bền vững hơn theo tiêu chuẩn châu Âu.

Tuy nhiên, để tận dụng tốt hơn các ưu đãi thuế quan trong Hiệp định, doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu phải lưu ý đầu tư công nghệ, tuân thủ quy tắc xuất xứ từ vải trở đi. Và quy tắc này vẫn đang là một trong những thách thức lớn đối với ngành dệt may Việt Nam.

Theo bà Thúy, EVFTA là “điểm tựa” giúp hàng dệt may Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường EU, tuy nhiên, để tận dụng được ưu đãi này, doanh nghiệp không chỉ dựa vào thuế suất, mà quan trọng hơn là phải thích ứng với những tiêu chuẩn mới về môi trường, truy xuất nguồn gốc và phát triển bền vững những yếu tố đang định hình toàn bộ chuỗi cung ứng thời trang châu Âu.

“EVFTA mở ra cánh cửa, nhưng chính doanh nghiệp phải là người bước qua cánh cửa đó bằng năng lực xanh, bằng chiến lược và bằng uy tín. Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển sẽ tiếp tục đồng hành, cung cấp thông tin, quảng bá và kết nối. Nhưng thành công hay không phụ thuộc vào mức độ mà doanh nghiệp Việt Nam dám thay đổi để phù hợp với tiêu chuẩn của một thị trường ngày càng khắt khe nhưng đầy tiềm năng”, bà Nguyễn Hoàng Thúy nhấn mạnh.

“Tôi cho rằng chiến lược này sẽ phát huy hiệu quả vào năm 2026 khi nguồn cung nguyên phụ liệu bắt đầu tăng. Đặc biệt, thời gian qua, ngành cũng đã thu hút được đầu tư vào nguồn cung nguyên liệu thiếu hụt. Hiện tại, Việt Nam chủ động được khoảng 54 - 55% nguồn cung nguyên liệu. Một số mặt hàng năm 2025 Việt Nam chưa sản xuất được nhưng dự kiến sẽ được xuất khẩu trong năm 2026”, ông Giang cho biết.

Trang Mai

Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/det-may-gap-hang-loat-luc-can-muc-tieu-xuat-khau-se-sut-giam-bao-nhieu-ty-usd.html