Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 3: Toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân

Với tầm nhìn sâu rộng, nhãn quan chính trị nhạy bén, sáng suốt, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: 'Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi,... việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi'.

Lời căn dặn đầu tiên

Trong suốt 55 năm (1969-2024) thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những lời căn dặn của Bác đã trở thành kim chỉ nam, sức mạnh, nguồn năng lượng to lớn cho Đảng, dân tộc và nhân dân vượt qua mọi cam go, khó khăn để giải phóng đất nước, thống nhất non sông; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lại đình Tân Trào, ngày 20-3-1961. Ảnh: Tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lại đình Tân Trào, ngày 20-3-1961. Ảnh: Tư liệu

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thắng lợi của cách mạng do Đảng lãnh đạo là đem lại độc lập, tự do, người dân được thực sự là chủ và làm chủ. Còn vinh dự và hạnh phúc lớn nhất của người cán bộ là đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Là cán bộ, đảng viên của một đảng chân chính cách mạng, mỗi người phải luôn nêu cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.

Ngay lời căn dặn đầu tiên trong Di chúc, Người đã dự liệu, trù tính sâu xa việc hệ trọng nhất: Vấn đề xây dựng Đảng.

Vấn đề xây dựng Đảng là một trong những nội dung quan trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đầu tiên trong bản Di chúc. Dù Người đã nhiều lần sửa một số câu từ, thêm, bớt các việc, nhưng trong Di chúc vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được Người đặt lên vị trí hàng đầu.

Trong lần sửa Di chúc vào tháng 5-1968, khi đề cập đến công việc phải làm ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân thắng lợi, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.

Trong bản Di chúc được công bố năm 1969, Người cũng dành phần đầu tiên để “nói về Đảng”. Đầu tiên Người khẳng định vị trí, vai trò của Đảng: Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đây là sự tổng kết mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc về vị trí, vai trò của Đảng.

 Bác bắt nhịp bài ca Kết đoàn. Ảnh TTXVN

Bác bắt nhịp bài ca Kết đoàn. Ảnh TTXVN

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, yếu tố cốt lõi mang đến sự thành công trong việc tổ chức, lãnh đạo của Đảng đó là “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”. Đây chính là yếu tố quan trọng giúp cho Đảng có khả năng tổ chức, lãnh đạo, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp cách mạng. Do đó, Người nhấn mạnh: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” .

Chỉnh đốn được Đảng, dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ tại sao Đảng có thể tổ chức và lãnh đạo thành công: Đó là “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”.

Như vậy, hai yếu tố quan trọng giúp cho Đảng có khả năng tổ chức, lãnh đạo, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp cách mạng là sự đoàn kết chặt chẽ trong Đảng và Đảng một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là cơ sở của đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế, là sức mạnh của Đảng và là nguồn gốc của mọi thắng lợi. Do đó, trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết đã được Bác đặt lên hàng đầu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa III (20-5-1968). Ảnh: Tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa III (20-5-1968). Ảnh: Tư liệu

Thật vậy, đoàn kết là một nội dung quan trọng trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, củng cố và phát triển lâu dài trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ đoàn kết có sức mạnh to lớn như thế nào. Chính vì vậy, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ và đoàn kết trong Đảng. Không thực hiện dân chủ thì không đoàn kết được, nhất là dân chủ trong Đảng. Vì Đảng ta cầm quyền, không dân chủ trong Đảng thì làm sao dân chủ trong dân được. Nhờ có dân chủ mà Đảng ta đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Nhờ có dân chủ trong Đảng nên đã khắc phục được tình trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, xa rời quần chúng. Vì vậy, “thực hành dân chủ rộng rãi” là điều vô cùng cần thiết trong Đảng.

Bên cạnh đó, phê bình và tự phê bình cũng là một nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển và là vũ khí sắc bén của Đảng. Phê bình và tự phê bình không những để sửa chữa khuyết điểm trong Đảng, làm cho đảng viên tiến bộ và mạnh lên mà còn khẳng định Đảng thật sự chân chính. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là một đảng cầm quyền” tức chính quyền do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo, là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Do đó, người yêu cầu: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Đạo đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của người cán bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm khu công nghiệp Liên hợp gang thép Thái Nguyên nhân dịp lò cao số 1 ra mẻ gang đầu tiên (1-1-1964). Ảnh: Tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm khu công nghiệp Liên hợp gang thép Thái Nguyên nhân dịp lò cao số 1 ra mẻ gang đầu tiên (1-1-1964). Ảnh: Tư liệu

Nói về đạo đức của người cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh bổn phận người đảng viên “phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết… Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”.

Còn khi là cán bộ thì phải thường xuyên rèn luyện. Rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn toàn diện, sâu sắc, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Trong đó mỗi cán bộ, đảng viên phải tự soi sét lại mình, tự phê bình, theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh, luôn nêu cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.

Đừng để có quyền hành rồi sa ngã

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, trong điều kiện Đảng cầm quyền, khi có quyền hành, cán bộ, đảng viên nếu không chú trọng rèn luyện đạo đức hàng ngày và suốt đời thì rất dễ sa ngã, hư hỏng.

Mặt khác, nói thì dễ, làm thì khó. Vì vậy, Người rất quan tâm đến việc rèn luyện “thật sự”. Trong một đoạn văn ngắn trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng đến bốn lần cụm từ “thật sự” và “thật” để nói lên tầm quan trọng của hành động thật. “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Không thật sự là giả dối, mà giả dối là bản chất của giai cấp bóc lột. Cán bộ, đảng viên của một Đảng mà ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, không có lợi ích nào khác thì không thể giả dối, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo.

Người thăm lớp bổ túc văn hóa của bà con lao động ở khu Lương Yên, Hà Nội (27-3-1956). Ảnh: Tư liệu

Người thăm lớp bổ túc văn hóa của bà con lao động ở khu Lương Yên, Hà Nội (27-3-1956). Ảnh: Tư liệu

Bác chỉ rõ: Đoàn kết không tự nhiên mà có mà lại rất dễ bị suy yếu, bị mất đi. Ý thức sâu sắc thực tế này, trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng, đặc biệt là trên phương diện người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngoài việc luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết trong Đảng. Người chỉ rõ tầm quan trọng của đoàn kết đối với sự tồn tại và phát triển của Đảng, thì Người cũng thường xuyên cảnh báo những nguy cơ có thể dẫn đến sự mất đoàn kết, chia rẽ trong Đảng.

Tại Đại hội lần thứ III những người viết báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén (8-9-1962). Ảnh: Tư liệu

Tại Đại hội lần thứ III những người viết báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén (8-9-1962). Ảnh: Tư liệu

Người thẳng thắn phê phán những cấp ủy Đảng và đảng viên để xảy ra tình trạng mất đoàn kết trong Đảng. Người phân tích sâu sắc những nguyên nhân và chỉ ra những giải pháp cụ thể để gìn giữ, củng cố, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng. Người yêu cầu tất cả mọi đảng viên, từ Trung ương đến các chi bộ phải hiểu rõ, trân quý và bảo vệ sự đoàn kết trong Đảng như một phần máu thịt quý báu nhất của cơ thể mình.

Đảng có mạnh đất nước mới phát triển

Trong thời kỳ Đổi mới, trên phương diện xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng luôn được quán triệt sâu sắc, đặc biệt là ở những giai đoạn có ý quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Đảng, của sự nghiệp cách mạng của dân tộc, khi phải đứng trước những thời cơ và cả những khó khăn, thách thức lớn. Đó là một bằng chứng mạnh mẽ khẳng định giá trị thực tiễn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) là sự tự phê bình, phê bình nghiêm túc, một cuộc chỉnh đốn lớn để đi đến hoạch định đường lối đổi mới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) về đổi mới, chỉnh đốn Đảng đã góp phần quan trọng cho công cuộc đổi mới phát triển mạnh mẽ vượt qua thách thức của sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô.

Người tặng hoa cho ba nữ dân quân Quảng Bình, Vĩnh Linh (24-9-1968). Ảnh: Tư liệu

Người tặng hoa cho ba nữ dân quân Quảng Bình, Vĩnh Linh (24-9-1968). Ảnh: Tư liệu

Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã ban hành Nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Hội nghị Trung ương 4, khóa XII tiếp tục ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thể hiện rõ quyết tâm chính trị, nhằm lập lại kỷ cương trong Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Và đến Hội Nghị Trung ương 4 khóa XIII, Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; và Quy định mới Về những điều đảng viên không được làm.

Qua đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định trình độ bản lĩnh, trí tuệ lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đưa Việt Nam từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, người dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, uy tín, vị thế trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.

Bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng vẫn còn những hạn chế: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, giảm sút ý chí chiến đấu, đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước… Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ráo riết tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thâm độc; triệt để lợi dụng hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để thâm nhập nội bộ, thúc đẩy các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ bên trong.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh vui đón Xuân Mậu Thân với các cháu nhi đồng (30-12-1967). Ảnh: Tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh vui đón Xuân Mậu Thân với các cháu nhi đồng (30-12-1967). Ảnh: Tư liệu

Đứng trước tình hình thế giới và trong nước đang tạo ra cả thuận lợi và thách thức đan xen, toàn Đảng ta tiếp tục kiên định lập trường, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Đồng thời, tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch; tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm, lãnh đạo đất nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

“Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Từ Trung ương đến chi bộ, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

(còn nữa)

NGUYỄN HÒA

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/di-chuc-chu-tich-ho-chi-minh-ngon-co-doan-ket-dan-dat-toan-dan-toc-di-toi-tuong-lai-tuoi-sang-bai-3-toan-tam-toan-y-phuc-vu-nhan-dan-791075