Di sản Tràng An - Những trái tim lan tỏa yêu thương ngày Thống nhất đất nước 30/4

Khi ánh nắng đầu ngày buông nhẹ xuống những vách núi đá vôi sừng sững của quần thể Di sản Tràng An (Ninh Bình) là lúc 1.300 con thuyền nhỏ bắt đầu lướt nhẹ trên mặt nước xanh biếc, mở ra hành trình khám phá kỳ quan thiên nhiên – văn hóa bậc nhất Đông Nam Á.

1.300 con thuyền nhỏ bắt đầu lướt nhẹ trên mặt nước xanh biếc, mở ra hành trình khám phá kỳ quan thiên nhiên – văn hóa bậc nhất Đông Nam Á ngày Thống nhất đất nước 30/4. Điều đặc biệt, đằng sau những chuyến đi ấy không phải là động cơ máy móc, mà là bàn tay, sức người – là 1.300 người chèo thuyền cần mẫn đang lặng lẽ gánh vác một sứ mệnh không lời: truyền tải vẻ đẹp con người Việt Nam đến với thế giới.

Tràng An, mỗi con thuyền là một câu chuyện. Người chèo thuyền – phần lớn là phụ nữ trung niên bản địa – không chỉ là lao động dịch vụ, mà còn là “hướng dẫn viên du lịch không chính thức”. Họ thuộc tên từng hang động, từng truyền thuyết cổ tích gắn với núi sông, có thể kể cho du khách nghe về lịch sử Nhà Đinh, Nhà Tiền Lê, hay những tích xưa Phật giáo hòa quyện với đạo Mẫu bản địa. Không học bài bản, không qua trường lớp, họ học bằng trải nghiệm, bằng truyền thống, bằng cả tình yêu quê hương thấm đẫm trong lời kể mộc mạc mà sâu sắc.

Nguyễn Thị Tâm – một người chèo thuyền gần 10 năm – chia sẻ: “Mình làm nghề này không giàu đâu, nhưng vui vì được đón khách, được kể chuyện về quê hương. Du khách hỏi nhiều, mình phải nhớ, phải học, không để Tràng An mất điểm trong lòng người ta…”

Công việc của họ không nhẹ nhàng: mỗi chuyến đi dài hơn 3 tiếng, với gần chục ki-lô-mét đường nước len lỏi qua 9 hang động. Giữa mùa hè nắng gắt hay những ngày đông lạnh giá, họ vẫn gò lưng chèo, kiên nhẫn đưa du khách đi trọn hành trình. Có người mỗi ngày chỉ chạy được 1 – 2 chuyến, thu nhập phụ thuộc hoàn toàn vào số lượt khách, nhưng điều níu giữ họ lại chính là niềm tự hào – được góp sức giữ gìn và giới thiệu một Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới của Việt Nam.

Du khách quốc tế, khi trở về từ Tràng An, không chỉ mang theo những bức ảnh ngoạn mục của núi non và hang động, mà còn mang theo ký ức ấm áp về nụ cười, sự tử tế, tận tụy của người chèo thuyền Việt. Nhiều người đã viết lời cảm ơn, chia sẻ lên mạng xã hội, gọi họ là “đại sứ văn hóa không tên”, là “trái tim của Tràng An”.

Trong thời đại mà công nghệ và máy móc đang thay thế dần lao động thủ công, Tràng An vẫn giữ được sự chậm rãi cần thiết để con người cảm nhận thiên nhiên bằng mọi giác quan. Chính sự “chậm” đó – nhờ những mái chèo thủ công – đã làm nên sự khác biệt: du lịch Tràng An không ồn ào, không xô bồ, mà trầm lắng, sâu sắc, đầy bản sắc Á Đông.

Ngày 30/4 – ngày Thống nhất đất nước – cũng là ngày được nhiều người lao động tại bến thuyền Tràng An ghi nhớ và tưởng niệm bằng cách rất riêng. Họ không có những cuộc diễu hành, không có lễ hội rình rang, nhưng trên mỗi con thuyền, trong từng lời kể về lịch sử, họ lồng ghép tinh thần hòa hợp, yêu chuộng hòa bình, độc lập. Có người treo lá cờ đỏ sao vàng nhỏ ở mũi thuyền, có người mặc chiếc áo truyền thống, và luôn dành vài phút đầu chuyến đi để nhắc với du khách – hôm nay là ngày Tổ quốc liền một dải.

“Ngày 30/4, năm nào mình cũng đi chèo sớm. Tự nhủ lòng là hôm nay phải đón khách thật niềm nở, phải kể chuyện thật hay. Mình không ra chiến trường, nhưng mình giữ đất, giữ nghề, giữ hồn quê qua từng nhịp chèo,” bác Đỗ Văn Hòa – một người chèo thuyền lớn tuổi xúc động chia sẻ.

1.300 người chèo thuyền – là 1.300 câu chuyện về người Việt Nam yêu lao động, yêu thiên nhiên, khát vọng hòa bình và gìn giữ giá trị truyền thống. Họ là linh hồn của những dòng nước Tràng An – nơi mà mỗi nhịp chèo không chỉ chở khách, mà còn chở cả tinh thần đất nước vươn ra thế giới.

Minh Đức

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/di-san-trang-an-nhung-trai-tim-lan-toa-yeu-thuong-ngay-thong-nhat-dat-nuoc-304-post1738613.tpo