Di tích Đồn Lũng Hồ - Đường Thượng: Dấu ấn lịch sử và điểm đến trên Cao nguyên đá
Nằm trên địa bàn xã Đường Thượng, tỉnh Tuyên Quang, Di tích Đồn Pháp và Tường thành Lũng Hồ là một chứng tích lịch sử quan trọng, ghi dấu một thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp và tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường của quân và dân địa phương. Tọa lạc ở độ cao 742m so với mực nước biển, di tích này ngày càng trở thành điểm đến không thể bỏ qua trong hành trình khám phá Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn.
Công trình quân sự kiên cố từ máu xương và nước mắt
Lịch sử của khu đồn bốt này bắt nguồn từ chính sách cai trị của thực dân Pháp. Sau chuyến thị sát của Trung tá Boifacy vào năm 1913, vùng đất Đường Thượng (thuộc tổng Đông Minh) được xác định là địa bàn "cần được theo dõi", dẫn đến kế hoạch xây dựng đồn bốt quân sự.

Đồn Lũng Hồ được bảo tồn và phát huy giá trị. Ảnh CTV
Từ năm 1935 đến năm 1940, công trình Đồn Lũng Hồ (khi đó gọi là Đồn Đường Thượng) và tường thành được hoàn tất. Để xây dựng công trình kiên cố này, thực dân Pháp đã thẳng tay bóc lột, bắt dân chúng trong vùng làm phu phen, tạp dịch. Họ phải vác đá, lấy nước trong điều kiện vô cùng khổ cực; bất cứ ai không tuân lệnh đều bị đánh đập tàn nhẫn hoặc thậm chí bị bắn chết.
Di tích bao gồm hai khu vực riêng biệt cách nhau khoảng 2km: Đồn Lũng Hồ và Tường thành Lũng Hồ. Đồn được xây dựng trên một khu đất cao, bằng phẳng có hình dạng như mai rùa, quay hướng Đông - Tây, bao bọc xung quanh là núi đá vôi. Đồn có thiết kế quân sự điển hình với tường bao quanh dài gần 200m, cao trung bình 2,5m và dày 50-70cm. Bức tường được bố trí các ụ bắn và lỗ châu mai để quan sát, phòng thủ. Bên trong là các khu nhà ngang, nhà dọc và một tháp canh ở phía Đông. Cách đó gần 2km, Tường thành Lũng Hồ được xây dựng bám theo triền núi, án ngữ con đường độc đạo nối xã Lũng Hồ (cũ) và huyện lỵ Yên Minh (cũ). Mục đích của tường thành là kiểm soát gắt gao người, ngựa và hàng hóa qua lại, đồng thời là tuyến báo động sớm, liên lạc về đồn chính.
Một đặc điểm chung của cả hai công trình là vật liệu xây dựng. Chúng hoàn toàn được làm từ đá núi (đá vôi) khai thác tại chỗ, liên kết bằng vữa cát pha vôi, tuyệt đối không sử dụng xi măng nhưng vẫn đảm bảo độ kết dính và bền bỉ đáng kinh ngạc.

Tường thành Lũng Hồ vững chãi theo thời gian. Ảnh CTV
Từ ách nô dịch đến căn cứ cách mạng
Dưới sự cai trị của Pháp, Đồn Lũng Hồ là một công cụ quân sự quan trọng, không chỉ kiểm soát tuyến đường huyết mạch mà còn ngăn chặn các hoạt động tuyên truyền cách mạng, đẩy đời sống nhân dân vào cảnh lầm than. Tuy nhiên, ngọn lửa cách mạng vẫn âm ỉ. Cuối năm 1944, đồng chí Việt Hưng đã đến Lũng Hồ, Đường Thượng để xây dựng cơ sở, khơi thông đường liên lạc từ tỉnh Hà Giang (cũ) sang tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và nhận được sự ủng hộ nhiệt thành của đồng bào.
Bước ngoặt xảy ra vào ngày 9/3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp. Tại Đường Thượng, Bang tá Đào Văn Ất (tay sai của Pháp) hoảng hốt bỏ đồn chạy trốn. Nắm bắt thời cơ vàng, cán bộ Việt Minh đã khẩn trương họp bàn, tổ chức lực lượng và chỉ trong thời gian ngắn, vào ngày 16/3/1945, ta đã hoàn toàn chiếm được Đồn Đường Thượng. Sau khi chiếm đồn, lực lượng cách mạng đã phá kho, lấy ngô thóc chia cho dân nghèo. Từ một biểu tượng của sự kìm kẹp, Đồn Lũng Hồ đã trở thành một trong những căn cứ cách mạng đầu tiên tại địa phương.
Ngày nay, dù nhiều hạng mục đã bị hư hại, xuống cấp theo thời gian, Di tích Đồn Lũng Hồ và Tường thành Lũng Hồ vẫn đứng sừng sững. Công trình đã và đang được ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch lập hồ sơ bảo tồn, phát huy giá trị. Cùng với các di sản địa chất và các lễ hội truyền thống trên vùng Cao nguyên đá Đồng Văn, di tích lịch sử này là điểm dừng chân lý thú, giàu ý nghĩa cho du khách trên hành trình khám phá miền đá Tuyên Quang.











