Điểm tựa kinh tế nông nghiệp Việt Nam - Bài cuối: 'Hạt ngọc trời' vươn mình trong kỷ nguyên mới

Chặng đường 50 năm kể từ ngày đất nước thống nhất đã chứng kiến sự chuyển mình ngoạn mục của Đồng bằng sông Cửu Long.

Theo dõi sự phát triển của trà lúa trong mô hình tại xã Phước Trung (Gò Công Đông, Tiền Giang). Ảnh: Minh Trí/TTXVN

Theo dõi sự phát triển của trà lúa trong mô hình tại xã Phước Trung (Gò Công Đông, Tiền Giang). Ảnh: Minh Trí/TTXVN

Từ một vùng đất còn nhiều khó khăn, đối mặt với nguy cơ thiếu đói sau chiến tranh, Đồng bằng sông Cửu Long đã vươn lên trở thành vựa lúa lớn nhất cả nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đóng góp quan trọng vào xuất khẩu.

Giờ đây, đứng trước những thách thức mới từ biến đổi khí hậu, yêu cầu khắt khe của thị trường thế giới và mục tiêu phát triển bền vững, ngành nông nghiệp đang bước vào một giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ hơn nữa. Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 là minh chứng rõ nét cho tầm nhìn và khát vọng nâng tầm hạt gạo Việt Nam trong kỷ nguyên mới, tiếp nối và phát huy những thành tựu đã đạt được sau nửa thế kỷ.

Đề án 1 triệu ha - chiến lược đột phá ứng phó thách thức

Đồng bằng sông Cửu Long với lợi thế tự nhiên và kinh nghiệm sản xuất lúa lâu đời, đã đạt sản lượng lúa gạo khổng lồ - hơn 24 triệu tấn lúa vào năm 2024. Tuy nhiên, phương thức canh tác thâm canh truyền thống trong một thời gian dài đã bộc lộ nhiều hạn chế.

Theo ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Cần Thơ, tư duy sản xuất tập trung vào thâm canh tăng năng suất đã dẫn đến việc lạm dụng tài nguyên như: giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Một số khâu quan trọng như ghi chép nhật ký sản xuất, đảm bảo an toàn thực phẩm, hay hạn chế phát thải khí nhà kính chưa được chú trọng.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt với các hình thái thời tiết cực đoan như: hạn mặn, ngập lụt, và sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế đòi hỏi sản phẩm phải xanh, sạch, truy xuất được nguồn gốc, việc tiếp tục sản xuất theo lối cũ là không bền vững. Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ra đời như một giải pháp chiến lược, nhằm tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững hơn.

Đề án đặt mục tiêu kép: vừa nâng cao chất lượng và giá trị hạt gạo, vừa giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đặc biệt là giảm phát thải khí nhà kính – một yêu cầu ngày càng quan trọng của thị trường quốc tế, thậm chí mở ra cơ hội bán tín chỉ carbon. Quy mô 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại các tỉnh trọng điểm cho thấy quyết tâm và tầm nhìn dài hạn của Việt Nam đối với cây lúa. Đây là bước đi kế thừa những thành tựu về giống và quy trình canh tác đã được Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long và các đơn vị khoa học nghiên cứu, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng trên diện rộng, có sự tham gia và liên kết chặt chẽ của 4 nhà: Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân.

Mặc dù, mới bắt đầu triển khai thí điểm ở một số địa phương như Cần Thơ, Kiên Giang, Đồng Tháp, An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Đề án đã cho thấy những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Tại mô hình thí điểm ở Tiến Thuận (Cần Thơ), vụ Hè Thu 2024 trên 47,2 ha cho thấy năng suất đạt 64 tạ/ha, cao hơn ngoài mô hình 7 tạ/ha. Chi phí sản xuất trong mô hình cao hơn 5% nhưng lợi nhuận lại cao hơn 20%. Đặc biệt, lượng phát thải CO2 tương đương giảm đáng kể, từ 2 - 12 tấn/ha (tương đương 50-83%), chủ yếu nhờ thu gom rơm rạ và áp dụng tưới ngập khô xen kẽ (AWD).

Vụ Thu Đông 2024 tại Cần Thơ tiếp tục cho thấy kết quả tích cực: năng suất cao hơn 1,5 tạ/ha, chi phí thấp hơn 10,4% và lợi nhuận cao hơn 23,2% so với ngoài mô hình. Các hộ tham gia mô hình thí điểm giảm gần 50% lượng giống, 20% phân bón và giảm 2-3 lần phun thuốc hóa học, giúp giảm chi phí từ 4-6 triệu đồng/ha. Năng suất lúa tăng 7% và giá bán cao hơn lúa truyền thống 200 đồng/kg, mang lại lợi nhuận tăng thêm 3,5 - 7 triệu đồng/ha.

Tại Kiên Giang, Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp thanh niên Phú Hòa (huyện Tân Hiệp) thí điểm Đề án trên 50 ha qua 3 vụ. Kết quả cho thấy lượng giống giảm hơn 40kg/ha (gieo sạ 70kg/ha), phân bón giảm hơn 100kg/ha, lượng nước bơm vào ruộng cũng giảm nhiều nhờ kỹ thuật siết nước, giúp giảm chi phí đầu tư hơn 5 triệu đồng/ha và tăng lợi nhuận. Năng suất lúa trong mô hình tương đương ngoài mô hình, nhưng tỷ suất lợi nhuận đạt trên 60%. Lượng phát thải khí nhà kính ước tính giảm từ 7,4 tấn CO2 quy đổi/ha trở lên.

Ông Hồ Văn Hướng, thành viên Hợp tác xã Phú Hòa, bày tỏ sự phấn khởi khi mô hình giúp gia đình ông giảm 10 triệu đồng chi phí/vụ với 2ha đất, lợi nhuận tăng trên 60%. Ông và nhiều nông dân thấy ý nghĩa hơn là quy trình sản xuất mới thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị hạt lúa và góp phần bảo vệ môi trường, sức khỏe.

Ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Cần Thơ nhận định, nếu Đề án được triển khai rộng rãi với quy trình đúng, minh bạch và truy xuất nguồn gốc gắn với thương hiệu, ngành hàng lúa gạo sẽ có "trang mới". Ông kỳ vọng Đề án sẽ mở ra "cánh cửa mới", giúp gạo Việt tiếp cận các thị trường khó tính, cao cấp hơn như châu Âu, Nhật Bản.

Nâng cao năng lực liên kết, giải quyết điểm nghẽn

Nông dân điểu khiển bơm tát nước qua app điện thoại thông minh. Ảnh: Văn Sĩ/TTXVN

Nông dân điểu khiển bơm tát nước qua app điện thoại thông minh. Ảnh: Văn Sĩ/TTXVN

Mặc dù có những tín hiệu tích cực ban đầu, việc triển khai Đề án 1 triệu ha trên quy mô lớn không tránh khỏi những khó khăn và thách thức. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thành Nam lưu ý cần cẩn trọng, không nôn nóng, không theo phong trào khi mở rộng Đề án.

Một trong những điểm nghẽn lớn nhất là vấn đề liên kết chuỗi giá trị lúa gạo. Theo khảo sát từ Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, mặc dù số lượng hợp tác xã ở các tỉnh khá lớn, tỷ lệ hợp tác xã có liên kết chuỗi giá trị không nhiều. Nhiều hợp đồng giữa doanh nghiệp và hợp tác xã thực chất chỉ là hợp đồng thu mua sản phẩm đơn thuần, khiến tỷ lệ diện tích, sản lượng lúa có liên kết tại Đồng bằng sông Cửu Long còn thấp.

Tình trạng liên kết chuỗi lúa gạo còn yếu và thiếu xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thị trường nông sản không ổn định, doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư ứng trước cho nông dân và xây dựng kho bãi, năng lực của hợp tác xã còn hạn chế, nông dân ngại thay đổi và đôi khi chưa tuân thủ hợp đồng. Vấn đề thiếu niềm tin giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân vẫn tồn tại.

Ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc Hợp tác xã Tiến Thuận, cho rằng sản xuất manh mún, thiếu tập trung, kỹ thuật yếu dẫn đến nông sản không ổn định về số lượng và chất lượng, tiêu thụ khó khăn. Cả hợp tác xã và doanh nghiệp còn thiếu lòng tin, ngại tìm kiếm đối tác phù hợp, vẫn quen giao dịch qua thương lái. Bà Trần Thị Kim Thúy từ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thành phố Cần Thơ bổ sung, quy mô sản xuất nhỏ lẻ của nông hộ khó ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa đồng bộ, dẫn đến chất lượng không đều.

Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An - ông Phạm Thái Bình nhấn mạnh liên kết chuỗi là con đường duy nhất để phát triển ngành hàng lúa gạo. Tuy nhiên, hình thức liên kết phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ là đặt cọc và thu mua khi vào vụ. Sự biến động giá cả thường dẫn đến mâu thuẫn, tình trạng "bẻ kèo" khi giá lúa sụt giảm. Ông Nguyễn Văn Huỳnh, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp thanh niên Phú Hòa, cũng gặp tình trạng liên kết thiếu chặt chẽ, doanh nghiệp chậm trễ hoặc không đến thu mua khi giá lúa giảm hoặc thu hoạch rộ.

Để Đề án 1 triệu ha thành công, cần giải quyết dứt điểm các điểm nghẽn này. Thứ trưởng Trần Thanh Nam chỉ đạo các địa phương đảm bảo hạ tầng tưới tiêu khi mở rộng diện tích. Việc nâng cao năng lực cho hợp tác xã là rất cần thiết, đồng thời cần lực lượng khuyến nông đủ năng lực để hướng dẫn nông dân thực hiện đúng quy trình giảm phát thải.

Ông Nguyễn Văn Huỳnh, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp thanh niên Phú Hòa đề xuất hợp tác xã cần được tiếp cận trực tiếp vốn ưu đãi để đầu tư máy móc phục vụ sản xuất, thu mua lúa cho nông dân khi thị trường biến động. Bên cạnh đó, ông Huỳnh cũng mong muốn hợp tác xã hoặc nông dân được vay vốn ưu đãi để chủ động sản xuất, còn doanh nghiệp tập trung cung ứng vật tư và bao tiêu đầu ra với giá sàn ổn định. Cần bố trí kho bãi cho hợp tác xã để dự trữ vật tư và thu mua lúa tạm trữ khi giá thấp.

Ông Lê Hữu Toàn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Kiên Giang chỉ ra một số khó khăn khác như sự "đụng hàng" giữa các tỉnh trong giai đoạn thu hoạch gây áp lực cho doanh nghiệp và hạn chế nguồn lực tài chính của tỉnh cho Đề án. Ông đề xuất Trung ương sớm triển khai toàn diện Đề án với 3 hợp phần (hỗ trợ hạ tầng, kỹ thuật, quản lý dự án), tính toán lại lịch thời vụ giữa các tỉnh để tránh "đụng hàng" và khuyến khích doanh nghiệp xây dựng cơ sở sơ chế, chế biến tại vùng nguyên liệu. Quan trọng là tăng cường sản xuất theo đơn đặt hàng và cung cấp thông tin thị trường kịp thời cho địa phương.

Mặc dù còn nhiều thách thức, những kết quả ban đầu từ các mô hình thí điểm cho thấy sự đồng thuận của hệ thống chính trị và người dân về sản xuất lúa giảm phát thải. Việc các địa phương tích cực nhân rộng mô hình và sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp là tín hiệu tích cực. Ông Trần Thái Nghiêm khẳng định Cần Thơ quyết tâm xem Đề án 1 triệu ha là cơ sở để phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo theo hướng liên kết chặt chẽ giữa các tác nhân.

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp không chỉ là một dự án nông nghiệp đơn thuần. Đây là bước đi chiến lược mang tính đột phá, tổng hòa những bài học từ 50 năm phát triển, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất và giải quyết các điểm nghẽn về liên kết, hạ tầng để nâng tầm hạt gạo Việt Nam. Thành công của Đề án sẽ là minh chứng cho khả năng thích ứng và vươn lên của nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long trong kỷ nguyên mới, củng cố vững chắc hơn nữa vị thế "Điểm tựa kinh tế nông nghiệp của cả nước" không chỉ về sản lượng mà còn về chất lượng, giá trị và tính bền vững.

Nhìn lại chặng đường 50 năm kể từ ngày giải phóng, Đồng bằng sông Cửu Long đã trải qua một cuộc chuyển mình kỳ diệu, từ vùng đất còn nhiều khó khăn, thiếu thốn trở thành vựa lúa, vựa cây ăn trái, thủy sản hàng đầu quốc gia và thế giới. Hành trình ấy là bản anh hùng ca về sức lao động, ý chí quật cường của người nông dân; là minh chứng cho vai trò quyết định của khoa học công nghệ trong việc tạo ra những đột phá; và là kết quả của đường lối, chính sách đúng đắn, kịp thời từ Đảng và Nhà nước.

Những câu chuyện về nông dân làm giàu trên đất Long An, Kiên Giang, sự ra đời và đóng góp to lớn của Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long với những giống lúa "huyền thoại" hay chiến lược táo bạo mang tên Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp... tất cả đều khắc họa một Đồng bằng sông Cửu Long đầy sức sống, năng động và không ngừng đổi mới.

Tuy vẫn còn đó những thách thức, đặc biệt là tác động ngày càng phức tạp của biến đổi khí hậu và những vấn đề nội tại trong liên kết chuỗi giá trị, nhưng với nền tảng vững chắc đã xây dựng trong 50 năm qua, cùng với sự chung tay của Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và người nông dân, tin rằng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục phát huy lợi thế, vượt qua khó khăn, triển khai thành công Đề án 1 triệu ha và giữ vững vị thế là "Điểm tựa kinh tế nông nghiệp" vững chắc cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Thanh Liêm - Văn Sĩ - Thu Hiền (TTXVN)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/kinh-te/diem-tua-kinh-te-nong-nghiep-viet-nam-bai-cuoi-hat-ngoc-troi-vuon-minh-trong-ky-nguyen-moi-20250517165143621.htm