Điện Biên Phủ - Chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam

Sau 7 năm thực hiện chiến tranh, bị thất bại liên tiếp ở Đông Dương, thực dân Pháp âm mưu tiến chiếm nhiều vùng chiến lược, chúng tập trung binh lực ở Điện Biên phủ nhằm giành thắng lợi quyết định. Thế nhưng chúng đã không những không thực hiện được âm mưu mà còn chịu thất bại thảm hại ngay trên chiến trường Điện Biên phủ. Lịch sử đã minh chứng, Chiến thắng Điện Biên Phủ là kết tinh của đường lối, nghệ thuật quân sự đúng đắn, sáng tạo; chiến thắng của lòng yêu nước quả cảm với tinh thần quyết chiến quyết thắng, đoàn kết một lòng của của cả dân tộc Việt Nam.

 Ngày 7-5-1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" phấp phới bay trên nóc hầm Đờ Cát. (Ảnh: TTXVN)

Ngày 7-5-1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" phấp phới bay trên nóc hầm Đờ Cát. (Ảnh: TTXVN)

Tư duy quân sự sắc sảo, xử lý thực tiễn linh hoạt

Khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”.

Thực hiện chiến lược quân sự theo chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do, tạo điều kiện giải phóng hoàn toàn Bắc Bộ. Theo đó, các lực lượng phải tác chiến chủ động đáp ứng yêu cầu kháng chiến. Quân đội đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời hoạt động mạnh ở sau lưng địch, mở những đợt tiến công vào hướng trọng điểm quan trọng mà địch tương đối yếu để tiêu diệt một bộ phận sinh lực, giải phóng đất, buộc địch phải phân tán lực lượng. Tư tưởng chỉ đạo được khẳng định: Không chủ quan khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm, đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Phải xây dựng những tổ chức dân quân du kích không thoát ly sản xuất ở vùng tự do và vùng căn cứ để trấn áp bọn phản cách mạng, giữ trị an, bảo vệ quần chúng đấu tranh với địch; phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực và bội đội địa phương, phối hợp mặt trận phía trước và mặt trận phía sau, đánh địch một cách linh hoạt.

Sau chiến thắng của quân dân ta trên các chiến trường, Bác Hồ đã sớm chỉ ra những thuận lợi, khó khăn trong giai đoạn mới: Trước kia ta phải lừa địch mà đánh. Nay địch ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất lớn cho ta. Muốn thắng thì phải tích cực chủ động, bí mật mau chóng, kiên quyết, dẻo dai. Bộ đội chủ lực đánh, bộ đội địa phương dân quân du kích cũng đánh. Các lực lượng phải phối hợp nhau chặt chẽ để tiêu diệt sinh lực địch, đánh tan kế hoạch của chúng

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định kế hoạch tác chiến Đông Xuân (1953-1954), và chỉ rõ phương châm: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Bác Hồ nhắc: “Đich tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh … Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn. Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các chiến trường khác phối hợp.

Thực hiện cuộc tiến công chiến lược quân sự Đông - Xuân, quân dân ta đã làm đảo lộn kế hoạch chiến tranh của Pháp - Mỹ, xoay chuyển cục diện chiến trường có lợi cho ta. Mặc dù có trên 50 vạn quân nhưng Na-va không thể đối phó với quân dân ta trên khắp các chiến trường. Hy vọng của Na-va là lập cứ điểm Điên Biên phủ, thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Nhiều quan chức chính phủ và quân đội của Pháp, Mỹ kiểm tra đều khẳng định Điện Biên phủ là “một pháo đài bất khả xâm phạm, không thể công phá”

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biêm phủ làm điểm quyết chiến chiến lược. Như vậy ta đã từ “tạm thời tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu” tiến tới chọn chỗ mạnh nhất của địch là tập đoàn cứ điểm Điện Biên phủ để tiêu diệt. Đây là một quyết định táo bạo mà sáng suốt, hoàn toàn đúng với phép biện chứng của sự phát triển chiến tranh “mạnh thắng, yếu thua”. Bác Hồ yêu cầu: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng. Không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải hoàn thành cho kỳ được”. Trước khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng chiến dịch kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận lên đường ra mặt trận, Bác Hồ căn dặn: Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh.

Tư tưởng chỉ đạo “đánh chắc thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là yếu tố đặc biệt quan trọng trong chiến dịch Điện Biên phủ. Đây là tư tưởng chỉ đạo hết sức đúng đắn, khoa học đối với chiến dịch quyết chiến chiến lược này. Đặc biệt là khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tư lệnh chiến dịch báo cáo chuyển từ phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” thì Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh thống nhất cho rằng: Quyết định thay đổi phương châm như vậy là hoàn toàn có cơ sở, rất đúng đắn, kịp thời, đáp ứng tình hình giữa địch và ta đã có thay đổi tại mặt trận. Thực hiện phương châm này, chúng ta chủ động muốn đánh mục tiêu nào, lúc nào thì đánh, đánh không có lợi thì dừng, chuẩn bị chắc thắng thì đánh, chuẩn bị không đầy đủ thì chưa đánh. Đồng thời cách đánh đó phù hợp với nguyên tắc chỉ đạo tác chiến và khả năng chiến đấu của bộ đội ta, cho phép ta vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, tập trung binh, hỏa lực phù hợp với từng mục tiêu, bảo đảm cho đánh chắc thắng cho từng trận, từng đợt chiến dịch.

Trong chiến dịch Điên Biên phủ ta đã chia làm 3 đợt. Sau đợt đầu tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam, Bác Hồ đã kịp thời đông viên: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của Quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng. Đợt hai ta đã thực hiện chiến thuật vây lấn, bao vây chặt toàn bộ quân địch, thực hiện tiến công, đánh lấn tiêu diệt từng cứ điểm, đánh lui các đợt phản kích của địch. Khống chế tiếp tế đường không và các hoạt động khác. Tạo thế và lực cho đòn tiến công quyết định cuối cùng. Đơt 3 ta đánh nhanh, phát triển lực lượng vào trung tâm cứ điểm, sở chỉ huy bắt sống tướng Đờ Cát và toàn bộ bộ tham mưu địch. Thắng lợi này đã khẳng định tư tưởng “đánh chắc thắng” của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Chiến dịch Điện Biên phủ là hoàn toàn khoa học và thực tiễn.

Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc

Thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện” và phát động chiến tranh nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng phát triển mọi lực lượng, mọi tầng lớp nhân dân đem sức người, sức của tích cực tham gia kháng chiến kiến quốc.

Từ ngày 3 đến 7-3-1951, tại xã Vinh Quang, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã diễn ra Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt, thành lập Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Mặt trận Liên Việt, làm cơ sở củng cố khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc, tạo nên sức mạnh, góp phần làm nên thắng lợi. Mặt trận Liên Việt đã liên kết đông đảo đồng bào Kinh, Thái, Nùng, Dao ở Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang… sát cánh bên nhau, tập trung sức người, sức của cho chiến dịch. Với mục tiêu chung là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, các hội Tương tế, Ái hữu, Cứu quốc, đoàn thể và các tổ chức thành viên của Mặt trận Liên Việt đã đoàn kết, giác ngộ và tổ chức các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, mọi cá nhân yêu nước trong nhân dân để hình thành và phát triển lực lượng cách mạng rộng lớn, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân được huy động ở mức cao nhất. Đó là yếu tố quan trọng góp phần làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” còn vang mãi đến hôm nay.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho chiến dịch Điện Biên phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”, nhân dân ta, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến già đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của bảo đảm mọi điều kiện cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận. Quân và dân ta ở khắp các địa phương trong cả nước, từ Tây Bắc, Liên khu 3, Tả ngạn, đến Bình - Trị Thiên, Liên khu 5, Bắc Tây Nguyên, Sài Gòn - Gia Định, Nam Bộ… đều đẩy mạnh các hoạt động phối hợp, chi viện đắc lực của hậu phương, qua những đoàn dân công hỏa tuyến nườm nượp vận tải lương thực, thực phẩm ra mặt trận, với khẩu hiệu “Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”.

Tính chung trong chiến dịch, nhân dân ta đã vận chuyển hơn 25 nghìn tấn lương thực, thực phẩm, hàng nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn dược tới mặt trận; giữ vững mạch máu giao thông quan trọng nhất của mặt trận. Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ được cứu chữa, chăm sóc… Ngoài thực hiện nhiệm vụ trên mặt trận giao thông vận tải, thanh niên xung phong đã dồn hết sức tham gia làm và sửa chữa hàng trăm km đường, nhiều bến, cầu, phá bom mìn; đồng thời trực tiếp tham gia chiến đấu cùng các đơn vị của Quân đội tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và nhân dân.

Ghi nhận chiến công bảo đảm hậu cần cho chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề cung cấp đạn dược là nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật; khó khăn về cung cấp lương thực không kém khó khăn về tác chiến. Tình hình cung cấp khẩn trương từng ngày từng giờ, không kém tình hình chiến đấu… quân địch không bao giờ tưởng tượng được rằng chúng ta có thể khắc phục khó khăn này. Bọn đế quốc, phản động không bao giờ đánh giá được sức mạnh của nhân dân ta. Sức mạnh đó có thể khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù.

Những bài học còn nguyên giá trị

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã để lại nhiều bài học quý cho Đảng và dân tộc ta. Những bài học đó đã được Đảng vận dụng sáng tạo để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Một là, khẳng định, đường lối cách mạng, đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng tạo. Đây là bài học quan trọng nhất, nhân tố quyết định thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể cách mạng Việt Nam của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ có đường lối cách mạng đúng, chúng ta đã tiến hành cuộc kháng chiến bằng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, với tinh thần: “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Chiến thắng Điện Biên Phủ cũng chứng minh một chân lý của thời đại: một dân tộc dù nhỏ, nếu quyết tâm, đoàn kết chiến đấu và có một đường lối đúng thì có thể đánh bại bất cứ cuộc chiến tranh xâm lược nào.

Hai là, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng một Bộ tham mưu Chiến lược mà trước hết là Bộ Chính trị có bản lĩnh vững vàng, trí tuệ sắc sảo, phân tích tình hình thực tiễn sâu sắc để quyết định những chính sách có sức huy động toàn dân tộc thực hiện mục tiêu của cuộc kháng chiến. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân đánh giặc, xây dựng lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, thực hiện chính sách hài hòa giữa các tầng lớp nhân dân để cùng hướng đến mục đích chung là kháng chiến thắng lợi. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững về chính trị, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, tận tâm với công việc, luôn sáng tạo, cố gắng khắc phục mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt là người đứng đầu, thật sự có nhân cách và trí tuệ, phát huy được sức mạnh của toàn đội ngũ để giành thắng lợi.

Ba là, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Bác Hồ có ý nghĩa chiến lược, là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam nói chung và chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng. Cả dân tộc trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức thành một khối vững chắc và hoạt động theo đường lối chính trị đúng đắn của Đảng. Tùy theo từng giai đoạn cách mạng mà có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau, nhưng luôn quán triệt nhận thức rằng đây là vấn đề sống còn của cách mạng.

Bốn là, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, đặc biệt là các đơn vị bộ đội chủ lực để thực hiện những đòn tiến công quyết định giành thắng lợi trên chiến trường, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Nhờ đó, chiến tranh nhân dân đã không ngừng phát triển trên địa bàn cả nước với phương thức tác chiến là: kết hợp giữa chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh chính quy của các đơn vị bộ đội chủ lực. Với sự lớn mạnh của bộ đội chủ lực, chúng ta có điều kiện tổ chức các chiến dịch quy mô ngày càng lớn, tạo ra những “quả đấm thép” mang tính quyết định thắng lợi trên chiến trường; trong đó, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Năm là, phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược của quân và dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhiệm vụ trọng đại mà Đảng và Chính phủ đề ra cho toàn quân, toàn dân là: tập trung lực lượng, quán triệt quyết tâm “tích cực phát huy tinh thần chiến đấu anh dũng, chịu đựng gian khổ, giành toàn thắng cho chiến dịch”. Ý chí quyết chiến, quyết thắng cao độ của bộ đội được thể hiện rõ trong việc hoàn thành một khối lượng lớn công việc ở giai đoạn chuẩn bị chiến dịch. Đặc biệt, khi ta thay đổi phương pháp tác chiến, từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” với một loạt vấn đề đặt ra về mặt tư tưởng, cũng như khó khăn trong suốt 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, bộ đội ta đã thể hiện sự quyết chiến, quyết thắng với sức mạnh phi thường - người trước ngã, người sau xông lên. Tinh thần quyết chiến, quyết thắng ấy còn thể hiện sinh động ở sự chi viện đắc lực của hậu phương tiếp sức cho mặt trận, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn nhấn chìm giặc Pháp ở chiến trường Điện Biên Phủ.

Sáu là, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Để có thể giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta, Đảng chủ trương xây dựng mặt trận đoàn kết trên ba cấp độ: đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết nhân dân các nước Đông Dương và đoàn kết với nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ có sự chi viện, cỗ vũ, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh vì hòa bình của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có cả nhân dân Pháp đã tạo nên sức mạnh thời đại của chiến thắng lịch sử Điên Biên phủ .

Bảy mươi năm đã đi qua, chiến thắng Điện Biên phủ - “mốc chói lọi bằng vàng” mãi là biểu tượng sáng ngời của dân tộc Việt Nam quật cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo, là niềm tin của các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do. Thế giới còn đổi thay nhưng thời gian không làm phai mờ tầm vóc, ý nghĩa và những bài học về phát huy giá trị của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do để xây dựng một đất nước thịnh vượng, hùng cường.

Trần Công Huyền

Nguồn Xây Dựng Đảng: http://www.xaydungdang.org.vn/ly-luan-thuc-tien/dien-bien-phu-chien-thang-cua-ban-linh-tri-tue-viet-nam-20882