Điện gió ngoài khơi: Cửa vẫn hẹp cho nhà đầu tư ngoại

Luật Điện lực 2024 không cấm nhà đầu tư nước ngoài tham gia phát triển điện gió ngoài khơi, nhưng cánh cửa hiện vẫn khép với doanh nghiệp ngoại và cả khu vực tư nhân trong nước.

Điện gió ngoài khơi vẫn tiếp tục xa vời với nhà đầu tư ngoại. Ảnh: Hoàng Anh.

Điện gió ngoài khơi vẫn tiếp tục xa vời với nhà đầu tư ngoại. Ảnh: Hoàng Anh.

Diễn biến thực tế trên thị trường cho thấy, mục tiêu đạt 6GW điện gió ngoài khơi đến năm 2030 theo Quy hoạch điện VIII là khó khả thi. Bộ Công thương dẫn ra ba nguyên nhân chính: thời gian triển khai một dự án điện gió ngoài khơi thường kéo dài 6-8 năm kể từ khi bắt đầu khảo sát; suất đầu tư cực lớn, dao động 2,5-3 tỷ USD/GW và đặc biệt hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, liên quan đồng thời đến các luật về điện lực, xây dựng, biển và hải đảo.

Nhà đầu tư ngoại và khu vực tư nhân dù được kỳ vọng thổi luồng sinh khí mới về vốn cũng như công nghệ vào lĩnh vực này tại Việt Nam, nhưng Bộ Công thương cho rằng, thời điểm hiện nay chưa có đầy đủ cơ sở để mở rộng cho nhóm đối tượng này được chấp thuận chủ trương đồng thời chấp thuận nhà đầu tư điện gió ngoài khơi (ĐGNK).

Vì vậy, cần rà soát quy định của luật về đấu thầu, đầu tư, điện lực, đánh giá kỹ các yếu tố về an ninh, quốc phòng cũng như hiện chưa có đủ dữ liệu để tổng kết đánh giá.

Liên quan đến lựa chọn nhà đầu tư, bộ cũng đề xuất rà soát để xây dựng quy định (theo dạng Nghị quyết của Chính phủ hoặc sửa đổi nghị định) để chuyển nhiệm vụ tổ chức đấu thầu từ bộ về UBND tỉnh với gợi ý chọn địa phương có trạm gom công suất/điểm đấu nối tiếp bờ của dự án ĐGNK.

Bộ này cho rằng nếu năm nay Quốc hội có thông qua nghị quyết thí điểm phát triển điện gió ngoài khơi, thì đến 2030 cũng khó có dự án nào đi vào vận hành thương mại. Thay vào đó, mục tiêu khả dĩ hơn là đến năm 2030 hoàn thiện khung pháp luật; và đến 2032 mới có thể đưa vào vận hành dự án thí điểm đầu tiên.

Giai đoạn đầu, theo dự thảo đề án của Bộ Công thương, chỉ có các tập đoàn kinh tế nhà nước được giao trọng trách phát triển dự án thí điểm. Điều này có nghĩa là nhà đầu tư nước ngoài, cũng như khối tư nhân trong nước, gần như chắc chắn phải chờ đợi ít nhất đến sau 2030-2032 mới có cơ hội tham gia sâu.

Bộ cũng kiến nghị Thủ tướng xem xét tăng quy mô ĐGNK giai đoạn 2031-2035 bằng cách đẩy sớm tiến độ một phần công suất của giai đoạn sau 2035, để bù đắp cho một số nguồn điện lớn chậm triển khai hoặc nguy cơ chậm tiến độ.

Không chỉ vướng pháp lý, câu chuyện giá điện cũng là điểm nghẽn. EVN nhiều lần kêu khó trong việc mua điện từ các dự án điện gió ngoài khơi, khi giá đề xuất ở mức 11-13 UScent/kWh – cao hơn nhiều so với chi phí biên dài hạn của hệ thống. Các vấn đề về tỷ giá, cam kết sản lượng trong hợp đồng PPA hay yêu cầu bảo lãnh Chính phủ cũng là những rào cản lớn.

Kỳ vọng đặt trên vai khối nội

Dù tiềm năng gió ngoài khơi tại Việt Nam được đánh giá hàng đầu khu vực châu Á, dòng vốn ngoại vẫn chưa tìm được “cửa vào” lĩnh vực này.

Điển hình là Tập đoàn Ørsted (Đan Mạch) – một trong những ông lớn số 1 thế giới về điện gió ngoài khơi – sau nhiều năm theo đuổi dự án cùng Tập đoàn T&T, đã rút lui để chuyển hướng sang phát triển chuỗi cung ứng phụ trợ.

Tương tự, Equinor (Na Uy) cũng lặng lẽ rời bỏ kế hoạch đầu tư, bất chấp đã có thời điểm cả ba “ông lớn” Ørsted, HLP và Xuân Thiện cùng nhau chạy đua khảo sát ba dự án trị giá hơn 32 tỷ USD tại tỉnh Bình Thuận cũ. Sau ba năm, tất cả đều biến mất khỏi bản đồ dự án.

Trường hợp Pacifico Energy (Hoa Kỳ) là minh chứng cho sự kiên trì hiếm hoi đến từ nhà đầu tư ngoại. Tập đoàn này đã đặt vấn đề phát triển điện gió ngoài khơi tại Lâm Đồng (sau khi tỉnh này sáp nhập với Bình Thuận và Đắk Nông) cũng như tại Vĩnh Long. Tuy nhiên, ngay lập tức họ vấp phải khó khăn như: thủ tục giao khu vực biển chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng, còn Quy hoạch điện VIII điều chỉnh chỉ nêu tên vùng thay vì dự án cụ thể tại địa phương.

Dẫu vậy, ông Nate Franklin, Chủ tịch Pacifico Energy, khẳng định vẫn cam kết đầu tư nhiều tỷ USD vào điện gió ngoài khơi tại Việt Nam. Nhưng thực tế cho thấy, ngoài cam kết, các bước triển khai cụ thể vẫn bị đình trệ do vướng mắc pháp lý và sự chồng chéo giữa các bộ, ngành.

Trong khi đó, tại khu vực tỉnh Bình Thuận cũ – nơi được coi là “thủ phủ gió” của Việt Nam với điều kiện đáy biển lý tưởng cho móng tuabin – có đến 18 đề xuất dự án điện gió ngoài khơi gửi về Bộ Nông nghiệp và môi trường. Song đến nay, chưa một dự án nào có thể được cấp quyền khai thác sử dụng khu vực biển, mới chỉ dừng lại ở bước tỉnh xin bổ sung vào quy hoạch.

Trái ngược với tình trạng thoái lui của khối ngoại, nhiều doanh nghiệp trong nước đang ồ ạt đổ vốn vào các dự án năng lượng quy mô tỷ USD, trong đó có điện gió gần bờ, ngoài khơi và điện khí LNG.

Tháng 3/2025, Hà Tĩnh đã đề xuất bổ sung 12 dự án điện gió mới vào quy hoạch giai đoạn 2026-2030, với tổng công suất khoảng 1.600MW, vốn đầu tư hơn 60.000 tỷ đồng. Đáng chú ý có dự án Eco Wind Kỳ Anh 498MW vốn đầu tư 20.000 tỷ đồng do Eco Land – thành viên Phú Tài Đức Group – phát triển. Ngoài ra, những cái tên quen thuộc như IPC Group hay Bitexco cũng ghi dấu ấn với loạt dự án điện gió ngoài khơi công suất hàng nghìn MW dự kiến cho giai đoạn sau 2030.

Song song, điện khí LNG cũng đang nổi lên như “làn sóng” mới. Đà Nẵng hiện có ba dự án LNG trị giá tới 200.000 tỷ đồng đang xếp hàng xin bổ sung vào quy hoạch, trong đó dự án LNG Tam Quang công suất 3.200MW, vốn 75.000 tỷ đồng do Tập đoàn Việt Phương đề xuất.

Việc nhiều dự án LNG và điện gió ngoài khơi cùng lúc chen chân vào quy hoạch điện VIII điều chỉnh cho thấy sức hút của thị trường năng lượng Việt Nam vẫn rất lớn. Nhưng cũng đặt ra câu hỏi, khi các nhà đầu tư ngoại rút lui, liệu khối nội địa có đủ sức gánh vác cả nhu cầu vốn lẫn công nghệ?

Lời giải được cho là tận dụng sức mạnh, trình độ chuyên môn và quản trị của những người khổng lồ, thể hiện qua việc Petrovietnam lần lượt bắt tay chặt với các thương hiệu phát triển năng lượng tầm cỡ châu lục và thế giới như CIP (đến từ Đan Mạch), Sumitomo để chuẩn bị sẵn sàng cho mục tiêu tiến sâu vào sân chơi điện gió ngoài khơi.

ĐGNK được xem là trụ cột để Việt Nam thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, ẫu vậy, sự thoái lui của Ørsted, Equinor và nhiều thương hiệu toàn cầu khác phản ánh rõ thông điệp: cơ chế chính sách nếu không rõ ràng, không minh bạch, thì dù tiềm năng có lớn đến đâu, dòng vốn quốc tế cũng khó lòng kiên nhẫn. Ngay cả những nhà đầu tư còn bám trụ như Pacifico Energy, nếu không sớm có hành lang pháp lý đầy đủ, cũng sẽ phải đối mặt với nguy cơ “đuối sức” trên chặng đường dài.

ĐGNK Việt Nam đang đứng ở ngã ba, hoặc kịp thời tạo cơ chế thử nghiệm đủ rõ ràng, với sự tham gia của cả nhà nước lẫn tư nhân – trong và ngoài nước, hoặc sẽ tiếp tục là “miếng bánh tiềm năng” mà thị trường chỉ có thể ngắm nhìn trên giấy.

Thái Bình

Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/dien-gio-ngoai-khoi-cua-van-hep-cho-nha-dau-tu-ngoai-d42090.html