Điều chỉnh linh hoạt mức đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 1/1/2026
Từ ngày 1/1/2026, người lao động và người sử dụng lao động sẽ chỉ đóng tối đa 1% tiền lương/quỹ tiền lương tháng, đồng thời Nhà nước sẽ hỗ trợ thêm 1% từ ngân sách Trung ương. Như vậy, quy định mức đóng bảo hiểm được điều chỉnh linh hoạt, thay vì cố định 1% như hiện nay…

Người lao động chờ làm thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Ảnh: TH.
Luật Việc làm (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua vào ngày 16/6/2025, có hiệu lực từ ngày 1/1/2026. Luật có nhiều điểm mới liên quan đến chính sách bảo hiểm thất nghiệp, nổi bật là quy định linh hoạt mức đóng.
MỨC ĐÓNG BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TỐI ĐA 1%
Theo quy định tại Luật Việc làm (sửa đổi), việc xác định đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp, đăng ký tham gia bảo hiểm thất nghiệp, điều chỉnh thông tin đăng ký kê khai tham gia bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện đồng bộ với việc xác định đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, điều chỉnh thông tin đăng ký kê khai tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Việc tham gia, đóng, hưởng bảo hiểm thất nghiệp được ghi nhận trong sổ bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, là cơ sở để giải quyết các chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật này.
Về mức đóng, người lao động đóng tối đa bằng 1% tiền lương tháng; người sử dụng lao động đóng tối đa bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp, và do ngân sách Trung ương bảo đảm.
Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo mức quy định, và trích tiền lương của từng người lao động theo mức quy định nêu trên để đóng cùng một lúc vào Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp.
Đối với người lao động hưởng tiền lương theo sản phẩm, theo khoán tại doanh nghiệp, tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, thì người sử dụng lao động đăng ký với cơ quan Bảo hiểm xã hội, và thực hiện đóng bảo hiểm thất nghiệp hằng tháng, 3 tháng hoặc 6 tháng một lần. Thời hạn đóng chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng tiếp theo ngay sau chu kỳ đóng.
Thời điểm đóng bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng lao động và người lao động là thời điểm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Người lao động không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng, thì không phải đóng bảo hiểm thất nghiệp của tháng đó.
CĂN CỨ ĐÓNG BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
Về tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp, Luật quy định người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, thì tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp là tiền lương tháng theo chức vụ, chức danh, ngạch, bậc và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề, hệ số chênh lệch bảo lưu lương (nếu có).

Giải quyết thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Ảnh: TH.
Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, thì tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp là tiền lương tháng, bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác được thỏa thuận trả thường xuyên, ổn định trong mỗi kỳ trả lương.
Trường hợp người lao động ngừng việc vẫn hưởng tiền lương tháng bằng, hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất, thì đóng theo tiền lương được hưởng trong thời gian ngừng việc.
Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp cao nhất bằng 20 lần mức lương tối thiểu tháng theo vùng do Chính phủ công bố tại thời điểm đóng bảo hiểm thất nghiệp.
Người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp mà bị tạm giam, tạm đình chỉ công việc, thì người lao động và người sử dụng lao động tạm dừng đóng bảo hiểm thất nghiệp.
Trường hợp người lao động được truy lĩnh đủ tiền lương, thì người lao động và người sử dụng lao động đóng bù cho thời gian bị tạm giam, tạm đình chỉ công việc bằng số tiền phải đóng của những tháng tạm dừng đóng, và thực hiện đồng thời với việc đóng bù bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Việc truy thu, truy đóng bảo hiểm thất nghiệp thực hiện cùng với việc truy thu, truy đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Cũng theo Luật Việc làm (sửa đổi), thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp để xét hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp là tổng thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ khi bắt đầu đóng bảo hiểm thất nghiệp, cho đến khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, hoặc chấm dứt làm việc theo quy định của pháp luật, mà chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Sau khi chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp tiếp theo được tính lại từ đầu, trừ trường hợp được bảo lưu theo quy định.
Thời gian người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp không được tính để hưởng trợ cấp mất việc làm, hoặc trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về viên chức.
Chính phủ quy định về thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp, nhưng chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp.