Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030: Cần có cơ chế điều phối vùng và ưu tiên đầu tư theo năng suất
Đại biểu Quốc hội nhận định, điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia không chỉ là cập nhật không gian phát triển mà còn là cơ hội để định hình lại mô hình tăng trưởng và cấu trúc vùng lãnh thổ Việt Nam trong 25 năm tới.
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, tuần qua, các Tổ đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đã thảo luận về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030.
Theo Cổng thông tin điện tử Quốc hội, thảo luận tại Tổ 4 gồm các Đoàn ĐHQH tỉnh Khánh Hòa, Lai Châu, Lào Cai, Đại biểu Lê Thu Hà (Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai) nhận định bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, với những thay đổi về địa giới hành chính, mô hình chính quyền địa phương hai cấp, cùng yêu cầu tăng trưởng nhanh để phục hồi sau năm 2025 đòi hỏi phải có sự điều chỉnh. Tuy nhiên, để Quy hoạch thực sự trở thành một "bản đồ phát triển quốc gia mang tính dẫn dắt chiến lược chứ không chỉ là sự điều chỉnh về mặt kỹ thuật", đại biểu Lê Thu Hà đã nêu 05 nhóm vấn đề lớn từ góc độ của địa phương cùng với các kiến nghị cụ thể.

Đại biểu Lê Thu Hà (Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai) thảo luận tại Tổ 4 về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030. (Ảnh: Quochoi.vn)
Đảm bảo tính khả thi của mục tiêu tăng trưởng và cấu trúc phát triển vùng
Dự thảo Quy hoạch xác định mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân trên 8% một năm trong giai đoạn 2021-2030, trong đó giai đoạn 2026-2030 đạt từ 10% trở lên, thể hiện khát vọng mạnh mẽ thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Tuy nhiên, đại biểu Lê Thu Hà đồng tình với cảnh báo của Ủy ban Kinh tế và Tài chính, nhấn mạnh, nếu thiếu cải cách thể chế tương ứng, mục tiêu này tiềm ẩn rủi ro về lạm phát, nợ công và mất cân bằng vĩ mô.
Để mục tiêu tăng trưởng hai con số khả thi, đại biểu cho rằng cần 03 điều kiện tiên quyết:
Điều chỉnh mô hình tăng trưởng: Cần chuyển sang dựa trên năng suất tổng hợp (TFP) thay vì chỉ dựa vào đầu tư và lao động giá rẻ. Đại biểu đề nghị Nghị quyết phải bổ sung chỉ tiêu TFP cụ thể cho từng vùng, nhất là các vùng còn thấp như Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Trung du miền núi phía Bắc, để tạo cơ sở lượng hóa và giám sát.
Huy động nguồn lực mới: Trong khi Chính phủ cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cần huy động nguồn lực mới từ cổ phần hóa, chuyển đổi đất công nghiệp, khai thác hạ tầng số và liên kết đầu tư công tư trong các dự án vùng động lực.
Khung nguyên tắc phân bổ đầu tư công: Cần có khung nguyên tắc phân bổ đầu tư công theo vùng động lực, vùng lan tỏa và vùng khó khăn, tránh tình trạng phân bổ bình quân làm loãng mục tiêu chiến lược. Đại biểu nêu ví dụ: Khu vực Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Ninh cần được coi là vành đai công nghiệp trọng điểm Bắc Bộ, trong khi các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Cao Bằng cần được ưu tiên cho hạ tầng kết nối và sinh kế bền vững.
Đề nghị điều chỉnh phân vùng và liên kết vùng, đặc biệt là Trung du và miền núi phía Bắc
Đại biểu Lê Thu Hà cho rằng việc giữ nguyên 06 vùng là phù hợp nhưng phạm vi và quy mô các vùng đã thay đổi đáng kể sau khi sắp xếp lại đơn vị hành chính. Đối với vùng Trung du và miền núi phía Bắc, dự thảo đặt mục tiêu tăng trưởng GRDP 9-10% một năm và hướng phát triển xanh, bền vững. Đại biểu cơ bản đồng tình nhưng nhấn mạnh tính pháp lý của cơ chế điều phối vùng. Đơn cử như vùng Trung du và miền núi phía Bắc có vai trò đặc biệt trong an ninh sinh thái, an ninh nguồn nước và an ninh biên giới quốc gia, nhưng năng lực cạnh tranh còn thấp, hạ tầng chưa liên thông, nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu.
Do đó, cần bổ sung cơ chế điều phối vùng có tính pháp lý, tương tự như mô hình Hội đồng vùng, có quyền điều phối các dự án hạ tầng liên tỉnh, điều chỉnh kế hoạch đầu tư trung hạn, đánh giá tác động môi trường liên vùng và giám sát sử dụng tài nguyên chung. Đại biểu cho rằng, cần phân định rõ vai trò các cực tăng trưởng nội vùng, cụ thể:
Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Ninh: Trục công nghiệp, đô thị hóa, có thể trở thành hành lang công nghiệp liên vùng Bắc Bộ.
Lào Cai, Lạng Sơn, Cao Bằng: Cực logistics và cửa ngõ thương mại quốc tế, cần cơ chế đặc thù về hạ tầng logistics, kho ngoại quan và chuyển đổi số trong hải quan, thương mại biên giới.
Sơn La, Lai Châu, Điện Biên: Trục phát triển xanh, sinh thái và nông nghiệp tuần hoàn, đóng vai trò điều tiết nước và cân bằng môi trường cho cả vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Đại biểu nhấn mạnh, cần có cơ chế chia sẻ lợi ích giữa các tỉnh thượng nguồn và hạ lưu, đặc biệt trong quản lý rừng, nước và khoáng sản. Đại biểu lấy ví dụ tỉnh Lào Cai chịu ảnh hưởng lớn bởi hoạt động khai khoáng và nguồn nước sông Hồng, nhưng lợi ích từ khai thác chưa được phân bổ hài hòa, tạo ra khoảng trống chính sách cần bổ sung.
Định hướng phát triển các ngành trụ cột và khai thác tiềm năng đặc thù
Về công nghiệp và dịch vụ, dự thảo xác định trọng tâm vào chế biến, chế tạo, cơ khí, điện tử, logistics, tuy nhiên, do năng lực hấp thụ FDI ở vùng núi còn yếu. Do vậy đại biểu đề nghị gắn chỉ tiêu tăng trưởng với cơ chế sàng lọc dự án đầu tư theo ba tiêu chí: công nghệ tiên tiến, tác động môi trường thấp và hiệu quả lan tỏa vùng. Đồng thời, Chính phủ nên giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các địa phương xây dựng danh mục ngành ưu tiên riêng cho từng tỉnh. Đại biểu cũng đề xuất về ngành ưu tiên: Công nghiệp chế biến sâu khoáng sản, gỗ rừng trồng và năng lượng tái tạo (Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái); Công nghiệp điện tử, vật liệu mới và logistics vùng (Thái Nguyên, Phú Thọ); Công nghiệp chế biến nông sản, dược liệu, thủy điện (Sơn La, Điện Biên).
Đối với nông nghiệp và kinh tế sinh thái, sản phẩm đặc sản hiện trùng lặp, công nghiệp chế biến còn yếu, đại biểu kiến nghị xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp vùng núi phía Bắc với trung tâm chế biến kho lạnh liên vùng tại Phú Thọ hoặc Lào Cai, gắn sản xuất với tiêu thụ. Đồng thời, cần khuyến khích nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp carbon thấp và có cơ chế tín chỉ carbon cho hộ trồng rừng, hợp tác xã để giúp người dân có thu nhập ổn định khi bảo vệ rừng.
Về du lịch và văn hóa, vùng có tiềm năng đặc sắc nhưng còn phân tán. Đại biểu đề nghị hình thành hai tuyến du lịch liên vùng trọng điểm là con đường Tây Bắc (gồm Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La) chú trọng về du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng núi cao, văn hóa dân tộc thiểu số. Vòng cung Đông Bắc (gồm Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên) chú trọng du lịch lịch sử, địa chất, sinh thái hồ và hang động… Đồng thời, theo đại biểu Lê Thu Hà, Chính phủ nên ban hành cơ chế hỗ trợ đào tạo hướng dẫn viên bản địa và quỹ bảo tồn văn hóa gắn với du lịch cộng đồng, tránh thương mại hóa văn hóa dân tộc.
Cần tập trung chính sách nguồn lực và công cụ thực hiện
Nêu rõ, Báo cáo thẩm tra đã chỉ ra nguồn lực từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước không đạt mục tiêu, dẫn đến thiếu vốn cho hạ tầng, để bảo đảm thực thi quy hoạch, đại biểu Lê Thu Hà đề xuất thể chế hóa cơ chế "đổi đất lấy hạ tầng" và đầu tư theo kết quả đầu ra cho các dự án liên vùng. Thành lập Quỹ Phát triển vùng Trung du và miền núi phía Bắc với nguồn từ ngân sách Trung ương, vốn vay ODA và đóng góp của khu vực tư nhân. Quỹ này dùng để đồng tài trợ hạ tầng chiến lược, logistics và chuyển đổi sinh kế vùng cao. Đồng thời, ưu tiên đầu tư hạ tầng số, trung tâm dữ liệu vùng, năng lượng tái tạo, coi đó là hạ tầng thiết yếu song hành cùng với giao thông. Ngoài ra, cần rà soát thống nhất Quy hoạch Tổng thể quốc gia với Luật Quy hoạch (sửa đổi) và các chiến lược chuẩn bị trình Đại hội Đảng, tránh trùng lặp và đảm bảo tính khả thi lâu dài.
Đại biểu Lê Thu Hà nhận định, điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia không chỉ là cập nhật không gian phát triển mà còn là cơ hội để định hình lại mô hình tăng trưởng và cấu trúc vùng lãnh thổ Việt Nam trong 25 năm tới. Nếu thể chế hóa được cơ chế điều phối vùng, phân bổ đầu tư công theo năng suất và công bằng vùng miền, vùng Trung du và miền núi phía Bắc với vị trí sinh thái, văn hóa và an ninh chiến lược sẽ trở thành cực phát triển xanh, bền vững và an toàn sinh thái của quốc gia.














