Điều hành chính sách tiền tệ góp phần kiểm soát lạm phát năm 2024

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2024 ghi nhận mức tăng bình quân 3,63% so với năm 2023, thấp hơn mục tiêu Quốc hội đặt ra. Đóng góp vào thành công này, theo bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê giá (Tổng cục Thống kê - TCTK), là nhờ chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời và hiệu quả đã góp phần kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, sự hạ nhiệt của lạm phát thế giới đã tác động tới lạm phát của Việt Nam, giảm bớt áp lực từ kênh nhập khẩu lạm phát.

9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng trong tháng 12

Tháng cuối năm 2024 ghi nhận CPI tăng 0,29% so với tháng trước và tăng 2,94% so với cùng kỳ năm 2023. Một số địa phương thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ y tế; giá nhà ở thuê, giá xăng dầu tăng là những nguyên nhân chính khiến CPI tháng 12 tăng. Trong số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ, có 9 nhóm ghi nhận chỉ số giá tăng so với tháng trước. Trong đó, nổi bật là nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,19%. Đặc biệt, giá dịch vụ y tế tăng mạnh 2,84% do điều chỉnh theo mức lương cơ sở mới. Nhóm giao thông cũng tăng 0,57%, chủ yếu do nhu cầu di chuyển cuối năm tăng cao, kéo theo giá vé vận tải hành khách bằng đường sắt và hàng không tăng lần lượt 4,03% và 2,06%. Bên cạnh đó, giá xăng dầu trong tháng tăng 1,21% đã tạo áp lực lên chi phí vận chuyển. Ngoài ra, nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,53%, với giá thuê nhà tăng 0,76% do nhu cầu thuê chung cư và nhà trọ tăng mạnh. Trong khi đó, 2 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm: Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,03% và nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,13%.

CPI bình quân quý IV/2024 tăng 2,87% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng thấp này đóng góp tích cực vào diễn biến lạm phát cả năm. Tính chung năm 2024, CPI chỉ tăng 3,63% so với năm 2023, đạt dưới mức mục tiêu Quốc hội đề ra. Theo TCTK, có nhiều yếu tố khiến CPI bình quân năm 2024 tăng so với năm trước nhưng vẫn duy trì dưới mục tiêu. Đầu tiên, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng mạnh 4,03%, tác động làm CPI chung tăng 1,35%. Trong đó, giá lương thực tăng 12,19%, tác động làm CPI tăng 0,45% (riêng giá gạo tăng 15,93%, làm CPI chung tăng 0,41%); nhóm thực phẩm tăng 2,7%, làm CPI chung tăng 0,58%.

Bên cạnh đó, nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,2%, tác động làm CPI chung tăng 0,98% vào CPI chung. Trong đó, chủ yếu do giá điện sinh hoạt tăng 7,68% do nhu cầu sử dụng cao và điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân của EVN. Đồng thời, chỉ số giá nhà ở thuê và nhà chủ sở hữu tính quy đổi tăng 4,6%, tác động làm CPI tăng 0,48%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,16%, chủ yếu do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT từ ngày 17/11/2023 và Thông tư số 21/2024/TT-BYT từ ngày 17/10/2024 của Bộ Y tế. Mức tăng này tác động làm CPI chung tăng 0,39%. Ngoài ra, nhóm giáo dục tăng 5,37% do học phí tại một số địa phương được điều chỉnh trong các năm học 2023-2024 và 2024-2025, làm CPI chung tăng thêm 0,33%; chỉ số giá nhóm giao thông tăng 0,76%, tác động làm CPI chung tăng 0,07%. Ngược lại, yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI là nhóm bưu chính, viễn thông khi giảm 1,02% so với năm 2023.

Những yếu tố có thể gây áp lực lạm phát năm 2025

Như vậy, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát, giữ mức CPI dưới mục tiêu đề ra trong năm 2024 mặc dù phải đối mặt với nhiều áp lực từ biến động giá cả trong nước và quốc tế. Tại họp báo công bố số liệu thống kê KT-XH quý IV và năm 2024, phóng viên Thời báo Ngân hàng đã có cuộc trao đổi nhanh với Bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê giá về kết quả kiểm soát lạm phát năm 2024 và những yếu tố có thể gây áp lực lạm phát năm 2025.

Bà đánh giá như thế nào về kết quả kiểm soát lạm phát năm 2024?

CPI bình quân năm 2024 tăng 3,63% cho thấy lạm phát đã được kiểm soát dưới ngưỡng cho phép của Quốc hội. Đây là mức lạm phát phù hợp với tình hình KT-XH ở trong nước, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô (KTVM) là điểm sáng trong kết quả phát triển kinh tế của Việt Nam năm 2024.

Để ổn định KTVM, thành công trong việc kiểm soát lạm phát, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai quyết liệt nhiều giải pháp trong năm 2024 như đảm bảo thông suốt hoạt động cung ứng, lưu thông, phân phối hàng hóa, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống của người dân. Chú trọng tăng cường công tác quản lý, điều hành giá, đặc biệt trong thời điểm thiên tai, bão lũ; kịp thời xuất cấp hàng dự trữ quốc gia để hỗ trợ, cứu trợ người dân bị thiệt hại do bão lũ; Điều hành giá các mặt hàng nhà nước định giá, các dịch vụ công theo lộ trình thị trường một cách thận trọng. Các chính sách hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí để hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp cũng được Chính phủ tiếp tục thực hiện trong năm 2024. Cùng với đó, chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời và hiệu quả đã góp phần kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, sự hạ nhiệt của lạm phát thế giới đã tác động tới lạm phát của Việt Nam, giảm bớt áp lực từ kênh nhập khẩu lạm phát.

Bà có thể cho biết các yếu tố có thể tạo áp lực lạm phát trong năm 2025?

Chúng tôi đánh giá áp lực lạm phát năm 2025 có thể đến từ một số yếu tố như: Hiện nay xung đột quân sự ở một số khu vực leo thang căng thẳng, diễn biến khó lường, có nguy cơ lan rộng. Cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn ngày càng gay gắt. Cùng với đó, hiện tượng thời tiết cực đoan tác động nghiêm trọng tới KT-XH toàn cầu. Điều này có thể tạo nên sự đứt gãy chuỗi cung ứng, làm gia tăng chi phí vận tải, tác động đến biến động giá các mặt hàng chiến lược trên thế giới, gây ra các rủi ro về an ninh năng lượng, an ninh lương thực. Đặc biệt, các chính sách thuế trong nhiệm kỳ của Tổng thống đắc cử Donald Trump có khả năng khắc nghiệt, dẫn đến các phản ứng trả đũa từ các quốc gia. Bảo hộ thương mại và rào cản thương mại gia tăng sẽ làm trầm trọng thêm căng thẳng thương mại và phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu, điều này có thể gây ra một đợt lạm phát mới, đồng thời làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu và tỷ lệ thất nghiệp có nguy cơ tăng cao trở lại.

Ở trong nước, chi phí nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất có thể tăng lên theo giá thế giới và chịu tác động từ biến động tỷ giá, ảnh hưởng đến chi phí, giá thành sản phẩm, tạo áp lực cho sản xuất của doanh nghiệp và từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng lên và tạo áp lực lên lạm phát. Bên cạnh đó, việc tiếp tục thực hiện lộ trình thị trường đối với các dịch vụ do Nhà nước quản lý như giá điện, học phí, giá dịch vụ y tế theo hướng tính đúng, tính đủ các yếu tố, chi phí sẽ tác động làm tăng CPI năm nay.

Các gói kích cầu, hạ mặt bằng lãi suất cho vay, mở rộng tín dụng, đẩy mạnh đầu tư công giúp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế nhưng cũng có thể tạo sức ép lên mặt bằng giá nếu nguồn cung tiền không được kiểm soát hợp lý. Mặt khác theo quy luật, vào các tháng cuối năm và các dịp lễ, Tết, giá lương thực, thực phẩm, đồ uống, may mặc, thiết bị và đồ dùng gia đình thường tăng. Ngoài ra, nếu trong năm xảy ra các hiện tượng thiên tai, dịch bệnh… có thể sẽ gây ảnh hưởng đến giá lương thực, thực phẩm tại một số địa phương, và tác động làm tăng CPI.

Lạm phát cơ bản tháng 12/2024 tăng 0,25% so với tháng trước, tăng 2,85% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,71% so với năm 2023, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (3,63%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

Lê Đỗ

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-gop-phan-kiem-soat-lam-phat-nam-2024-159628.html